CHÚA NHẬT LỄ THÁNH GIA THẤT, NĂM B
Các bài suy niệm & chú giải Lời Chúa
Lời Chúa: Hc 3,3-7.14-17a hay St 15,1-6; 21, 1-3; Cl 3,12-21 hay Dt 11, 8.11-12, 17-19 Lc 2, 22-40 hay 2, 22. 39-40
- Vươn cao hơn
- Những nhân vật
- Gia đình nhân loại
- Giáo Hội cỡ nhỏ
- Dung mạo Chúa Cứu Thế – Thiên Phúc
- Nhìn ngắm gia đình Chúa Giêsu
- Gia đình Kitô hữu cũng là thánh gia
- Tình yêu trong gia đình
- Lễ của mỗi gia đình – ViKiNi
- Gia đình là trường thực tập yêu thương – JNK
- Gia Đình – Con Đường
- Gia Đình Thánh
- Bài giảng lễ Thánh Gia Thất
- Cầu nguyện, sống còn của gia đình
- Gia đình của tôi ơi!
- Đức Kitô tiếp tục lớn lên
- Gia đình, cộng đoàn yêu thương
- Mái nhà lý tưởng
- Dâng Chúa trong đền thờ – R. Gutzwiller
- Gương mẫu Thánh Gia
- Gia đình Giuse – Maria – Hài Nhi Giêsu
- Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
- Hạnh phúc gia đình – JKN
- Tiến dâng cho Chúa
- Tình yêu và lòng kính trọng trong gia đình
- Tầm quan trọng của đời sống gia đình
- Thánh hóa gia đình – AM Trần Bình An
- Suy Niệm của Lm. Jos. Đăng
- Bếp lửa
- Dung mạo
- Gia đình gương mẫu
- Gia Đình vui sống theo Luật Chúa
- Giáo hội nhỏ
- Vai trò của gia đình
- Cha mẹ và con cái
- Gia đình tôn thờ Thiên Chúa
- Gia đình cầu nguyện – Lm Mark Link, SJ
- Thánh Gia Thất- Lm. Munachi Ezeogu
- Mái ấm gia đình – Lm Vũ Đình Tường
- Thánh Gia
- SLCVHV/36 – Lớn lên
- Lớn lên
- Dâng Chúa Giêsu trong đền thánh
- Chú giải của Noel Quesson
- Chú giải của Fiches Dominicales
- Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
- Chú giải của William Barclay
- Suy niệm của Lm. Đan Vinh
- Tổ ấm
- Thánh gia là gương mẫu mọi gia đình
Theo Tin Mừng kể lại, thì Thánh gia không phải chỉ gặp toàn những chuyện may mắn và suôn sẻ. Trái lại, thánh Giuse có lần đã tính đến chuyện tháo lui. Còn Chúa Giêsu, lúc được đưa tới đền thờ, khi còn đang ăm ngửa, đã được tiên đoán là sẽ trở thành như một lưỡi gươm đâm thâu qua cõi lòng người mẹ. Vào dịp theo cha mẹ lên đền thờ tham dự lễ Vượt Qua năm mười hai tuổi, Ngài đã là duyên cớ của những nỗi khổ tâm không cầm nén được của cha và mẹ Ngài. Có một lúc nào đó, trong khi giảng dạy, Ngài đã tuyên bố: Ngài đến không phải là để đem lại sự hòa thuận, mà là sự chia rẽ giữa các thành viên trong gia đình.
Những đoạn Phúc âm ngắn ngủi và họa hiếm về Thánh gia và về mối quan hệ thân thuộc, lại không phải là những bức họa rõ nét của một gia đình gương mẫu, hiểu theo nghĩa thông thường. Không ai có thể hồ nghi về sự thánh thiện của từng thành viên trong gia đình này. Vậy phải chăng Thánh gia không còn là gương mẫu cho các gia đình Kitô hữu nữa sao?
Hoàn toàn không phải là như vậy. Thánh gia vẫn luôn là mẫu mực cho các mối quan hệ giữa các thành viên của gia đình Kitô hữu. Thực vậy, Đức Maria vẫn một lòng tin tưởng và tôn trọng việc làm của Người Con, dù rằng có những lức Mẹ đã tỏ ra không hiểu hết tầm mức của việc làm đó. Không chỉ tôn trọng mà thôi, Mẹ còn dõi theo những bước chân Con đi, dù là những bước chân dẫn lên Núi Sọ. Còn thánh Giuse thì vẫn âm thầm lao động để tìm kiếm chén cơm manh áo, nuôi sống cả gia đình, cũng như chu toàn thánh ý của Thiên Chúa ở mọi nơi và trong mọi lúc. Còn Chúa Giêsu, Ngài đã thể hiện và hoàn tất công việc của Chúa Cha, không chỉ đối với các thành viên của gia đình ruột thịt, mà còn để mọi người trở thành anh em trong gia đình của ơn cứu chuộc.
Thánh gia là gương mẫu của một tình yêu vượt ra ngoài giới hạn của những quan hệ bình thường theo một nghĩa nào đó, vốn được gọi là tự nhiên, ruôt thịt, họ hàng, chủng tộc. Thánh Gia là gương mẫu cho một mối quan hệ đi ngược lại với óc cục bộ và sự kỳ thị, cho một lối sống gắn bó, không chỉ với những người thân quen, mà còn với hết mọi người.
Nhìn vào cuộc sống Thánh gia, chúng ta nhận ngay ra rằng: Còn có một cái gì lớn hơn cuộc sống gia đình, mà chính cuộc sống gia đình phải hướng tới. Tứ hải giai huynh đệ. Bốn bể đều là nhà. Bốn bể đều là anh em. Từ quan hệ ruột thịt tiến tới quan hệ của một huynh đệ, của một tình liên đới, của một tình đồng loại, một tình của những người con làm theo ý Chúa, hoạt động cho chính nghĩa, cho lẽ phải.
Con Thiên Chúa giáng sinh làm người, trở nên con của thánh Giuse và Mẹ Maria, để mọi người chúng ta được trở thành con Thiên Chúa và trở thành anh em với nhau. [Mục Lục]
Giờ đây chúng ta cùng nhau dừng lại để tìm hiểu về những nhân vật qua đoạn Tin Mừng vừa nghe.
Trước hết là Chúa Giêsu
Từ thuở thơ ấu, ngay cả khi chưa nói được, Chúa Giêsu đã hoàn tất các lời Thánh Kinh. Hôm nay Ngài thực hiện lời hứa đã được ban cho Đaniel, Malakia và nhiều tiên tri khác. Hôm nay trong con người hài nhi Chúa Giêsu, chính Thiên Chúa trở lại cung thánh đã bị bỏ phế của Ngài. Dù tội của Israel có thế nào chăng nữa, Thiên Chúa vẫn trung thành với lời mình đã hứa. Sự bất trung của Israel chỉ làm trì hoãn việc thực hiện các lời hứa ấy chứ không thể huỷ bỏ chúng được.
Trong cuộc đời chúng ta cũng thế. Ngày chúng ta được rửa tội, Thiên Chúa đã nhận chúng ta làm nghĩa tử. Mặc dù chúng ta có lắm bất trung, Ngài vẫn không khi nào ruồng rẫy. Mặc dù chúng ta có xua đuổi Ngài ra khỏi cung lòng chúng ta, Ngài vẫn tìm mọi cách giúp đỡ chúng ta ăn năn sám hối. Hôm nay, chúng ta hãy mở rộng cung thánh tâm hồn chúng ta cho Ngài, hãy mời Ngài đến ở mãi trong cuộc đời chúng ta, để rồi chúng ta sẽ trở nên ánh sáng chiếu soi cho những người chúng ta gặp gỡ trên vạn nẻo đường đời.
Tiếp đến là Maria và Giuse
Các Ngài đã chấp nhận chu toàn mọi lề luật. Các Ngài vâng phục đến độ còn thi hành thói quen đạo đức là trình dâng con trai đầu lòng tại đền thánh, một điều luật không đòi hỏi. Sở dĩ các Ngài đã đi quá lề luật như thế là vì các Ngài đã tuân phục với tình yêu chứ không vì sợ hãi. Riêng Mẹ Maria là thụ tạo tinh tuyền nhất của nhân loại, đã khiêm tốn chấp hành nghi thức thanh tẩy. Phần chúng ta là những kẻ bị tội lỗi làm cho trở nên xấu xa, chúng ta hãy khiêm tốn lãnh nhận bí tích Cáo giải để tâm hồn được thanh tẩy.
Sau khi nghe ông già Simêon nói về hài nhi Giêsu, hai ông bà đã ngạc nhiên. Sở dĩ như vậy vì các ngài chưa hoàn toàn thấu triệt mầu nhiệm sâu xa che phủ trên Con mình. Dù được sống thân mật với Chúa Giêsu, các ngài vẫn phải tiến tới trong đức tin. Nhưng đức tin các ngài luôn được đào sâu, vì các ngài suy gẫm trong lòng. Đối với chúng ta, cũng chẳng có gì lạ, nếu chúng ta không hiểu hết được những mầu nhiệm của Thiên Chúa. Dù qua hai mươi thế kỷ, Giáo Hội vẫn luôn tiếp tục đào sâu mầu nhiệm Đức Kitô. Nơi Đức Kitô, đức tin của chúng ta cũng phải triển nở và lớn lên trong sức mạnh và ơn sủng. Đức tin của chúng ta chính là sự tăng trưởng liên tục của Đức Kitô trong tâm hồn chúng ta.
Sau hết là ông Simêon và bà Anna
Chúa Thánh Thần đã ở trên ông Simêon, mạc khải cho ông biết Đấng Messia trước khi qua đời, thúc đẩy ông vào đền thờ chờ đón Hài Nhi Giêsu đến. Đối với chúng ta cũng vậy, chúng ta có thể sống dưới sự hoạt động của Chúa Thánh Thần cách thường xuyên, nếu chúng ta ở trong ơn nghĩa và biết chăm chỉ tuân theo những thúc đẩy bên trong của Ngài. Chúa Thánh Thần cũng có thể trở nên trong chúng ta một nguồn ánh sáng giúp chúng ta hiểu rõ hơn đức tin và bổn phận của chúng ta. Ngài đem đến một nguồn sức mạnh thiêng liêng giúp chúng ta can đảm sống đời sống chứng nhân cho Thiên Chúa.
Simêon và Anna đã suốt đời chờ mong Đức Kitô. Với chúng ta họ là những tấm gương hy vọng và trung tín. Lòng trung tín của họ đã được ân thưởng. Họ đã được niềm vui bồng ẵm trên tay ánh sáng dân ngoại, vinh quang Israel, là chính Chúa Giêsu. Trong mùa Giáng sinh này, chúng ta cũng hãy chuẩn bị và đón nhận hồng ân Thiên Chúa trong sự trung tín đợi chờ và đón nhận nó với tất cả tâm tình biết ơn ơn Simêon và Anna ngày xưa. [Mục Lục]
Giáo Hội đặc biệt quan tâm tới việc xây dựng gia đình Kitô hữu thành một cái nôi của tình thương, thành một mái trường dạy cho chúng ta những bài học làm người. Trong chiều hướng đó, Thánh Gia với Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh Giuse vốn được coi là những mẫu gương sáng chói của gia đình công giáo.
Thế nhưng, Chúa Giêsu đã không muốn đóng khung nhãn giới của chúng ta trong khuôn khổ một gia đình theo huyết thống. Bài học lớn nhất Ngài để lại cho chúng ta đó là bài học làm người trong xã hội. Ngài không vun xới cho gia đình riêng của mình, nhưng Ngài lại xây dựng đại gia đình nhân loại được cứu chuộc.
Tin Mừng cho thấy Chúa Giêsu ngay từ lúc lọt lòng mẹ đã phải trải qua một cuộc bôn ba, đã là một con người bị ruồng bắt bởi quyền lực thế gian. Con đường trốn qua Ai Cập cũng chính là con đường dân riêng của Chúa đã đi qua thuở xưa, con đường dẫn tới cuộc sống nô lệ trong suốt 400 năm. Nhưng rồi Ngài cũng được đưa về lại Galilê tượng trưng cho cuộc xuất hành của dân riêng khỏi đất nô lệ Ai Cập. Như thế Phúc Âm đã tóm gọn cuộc đời Chúa Giêsu và đặt cuộc đời ấy trong lịch sự của dân Chúa.
Qua Ai Cập và từ Ai Cập trở về, Chúa Giêsu đã không chỉ đi với cha mẹ Ngài mà còn đi với dân của Ngài. Qua cái chết và sống lại của Ngài, một dân mới được thiết lập và các môn đệ của Ngài được sai đi đến tận cùng trái đất để mọi người, không phân biệt màu da, tiếng nói, ý thức được mình là con Thiên Chúa và là anh em với nhau.
Việc xây dựng đại gia đình nhân loại nhiều khi vượt lên trên quyền lợi của gia đình ruột thịt hay dòng họ. Chúa Giêsu đã khẳng định điều đó một cách thật rõ ràng. Ngài đã từng cho người ta hiểu rằng Ngài đến không phải để đem hoà bình mà là gươm giáo, đến để chia rẽ con cái khỏi cha mẹ, nàng dâu khỏi mẹ chồng và làm coh những người trong gia đình trở thành kẻ thù của nhau. Những lời lẽ quả là lạ lùng, khó nghe. Dĩ nhiên chúng ta không thể coi Ngài như một kẻ chủ trương phá hoại gia đình hay coi nhẹ giá trị gia đình. Nhưng Ngài muốn cho người ta hiểu rằng: Còn một gia đình khác lớn hơn phải được xây dựng. Cái mối quan hệ lớn lao, cao quý mà người ta cần phải quan tâm thiết lập và vun xới, không phải là mối quan hệ cha con, anh em theo máu huyết. Mà là mối quan hệ cha con, anh em theo việc thực thi ý định của Chúa: Ai là mẹ Ta và ai là anh em Ta. Đó là người nghe và thực hành lời Chúa.
Nếu mọi thành phần trong gia đình cùng nhìn về một phía, cùng theo đuổi một lý tưởng phục vụ hạnh phúc của con người trong xã hội. Đó chính là gia đình gương mẫu, thánh thiện theo cái nhìn của Tin Mừng. Để đạt tới lý tưởng ấy, mỗi người trong gia đình cần phải tìm hiểu và đào sâu những đòi hỏi của Tin Mừng, thấy rõ trách nhiệm làm người và làm môn đệ của Chúa trong xã hội và trong thế giới hiện tại, đồng thời cố gắng giúp nhau chu toàn trách nhiệm ấy. [Mục Lục]
Gia đình là tế bào sống động của quốc gia, của nhân loại, cũng như của Hội Thánh. Tế bào căn bản này có khỏe mạnh và phát triển, thì toàn thể thân xác mới khỏe mạnh và phát triển. Sức khỏe và sự ổn định của gia đình ảnh hưởng tới sức khỏe và sự ổn định của quốc gia và Giáo Hội. Chính vì thế chúng ta phải đem vào trong gia đình một tinh thần Kitô giáo đích thực.
Thế nhưng ngày nay, vì chiến tranh, vì những trào lưu duy vật và chối bỏ đức tin, gia đình đã bị khủng hoảng và suy sụp, tế bào nền tảng này đã bị nhiễm độc. Vậy chúng ta phải làm gì để cứu vãn tình thế?
Điều tôi nhấn mạnh giờ đây, đó là tinh thần cộng đoàn. Thực vậy, mỗi người chúng ta phải biết từ bỏ tính ích kỷ để tiến đến một sự hòa hợp và yêu thương, như hình ảnh về thân thể mầu nhiệm của Đức Kitô mà thánh Phaolô đã đề cập tới. Gia đình là một Giáo Hội cỡ nhỏ, là một nhiệm thể được thu hẹp. Đây không phải chỉ là một hình ảnh tượng trưng, mà còn là một thực thể sống động.
Người cha là đầu thân thể như Đức Kitô là đầu Giáo Hội. Người mẹ là thân thể như vai trò của Giáo Hội, và con cái là những phần tử như những tín hữu là chi thể của Đức Kitô.
Một gia đình đích thực phải hiệp nhất và trở nên một: Một tư tưởng, một ước muốn, một cõi lòng, một con tim. Người cha tìm kiếm cơm áo, người mẹ phân phát cơm áo và con cái thì lãnh nhận máu huyết và sự sống nơi cha mẹ. Người cha thì giống với Đức Kitô là đầu nhiệm thể. Người mẹ thì giống với Giáo Hội, còn con cái thì giống những chi thể trong nhiệm thể ấy.
Bởi đó hãy đón nhận và thực thi tinh thần hợp nhất. Là con cái, hãy nhìn thấy Đức Kitô nơi người cha, hãy yêu mến và trọng kính Đức Kitô nơi người cha của mình. Trgkhi đó, những người cha hãy sống như Đức Kitô và điều hành gia đình của mình trong tinh thần yêu thương.
Còn người mẹ, hãy lấy Giáo Hội làm lý tưởng cho mình, để có sự trung thành và hiền dịu. Con cái chính là những tế bào, trong đó Đức Kitô phải lớn lên, phải trưởng thành. Muốn thấm nhuần tinh thần ấy, chúng ta phải cần đến một bầu khí đạo đức. Bầu khí đạo đức này được tạo nên do thánh lễ, do phụng vụ, do các bí tích và đặc biệt do những giờ kinh chung trong gia đình.
Đây là những giây phút linh thiêng, cha mẹ, vợ chồng, con cái cùng quây quần bên nhau và cùng nhau quây quần bên Chúa, để dâng lên Ngài của lễ chung là những hy sinh gian khổ trong cuộc sống. Đây cũng là một liều thuốc thần diệu hàn gắn những đổ vỡ, vì trong những phút giây ấy chúng ta thực sự trở nên một.
Hãy xây dựng gia đình mình trong tinh thần hợp nhất như các chi thể hợp nhất với nhau và nhất là như Đức Kitô hợp nhất với Giáo Hội của Ngài. [Mục Lục]
(Trích trong “Như Thầy Đã Yêu”)
Hoàng đế của một vương quốc hung vường vag thịnh vượng, một ngày kia đã triệu tập các nghệ nhân từ khắp các nước đến dự một cuộc tranh tài. Cuộc thi mô tả dung mạo hoàng đế.
Các nghệ nhân Ấn Độ đến với đầy đủ dụng cụ và các loại đá hoa cương quí hiếm. Các nghệ nhân Acmêni mang theo một loại đất sét đặc biệt. Các nghệ nhân Ai Cập mang đủ loại đồ nghề và khối cẩm thạch hảo hạng.
Sau cùng, người ta hết sức ngạc nhiên vì phái đoàn nghệ nhân Hy Lạp chỉ mang đến vỏn vẹn một gói thuốc đánh bóng.
Mỗi phái đoàn thi thố tài năng của mình trong một phòng riêng. Khi thời gian ấn định đã hết, hoàng đế đến từng gian phòng để thưởng thức các tác phẩm. Vua hết lời khen ngợi bức chân dung của mình do các họa sĩ Ấn độ vẽ. Ông càng than phục hơn khi nhìn ngắm các pho tượng của chính ông mà các người Ai Cập và Acmêni điêu khắc.
Sau cùng, đến phòng trưng bày của người Hy Lạp, hoàng đế không nhìn thấy gì cả, duy chỉ có bức tường của căn phòng được đánh bóng đến độ khi nhìn vào ông thất chân dung mình hiện ra từng nét.
Dĩ nhiên, giải nhất thuộc về các nghệ nhân Hy Lạp. Bởi vì đã hiểu rằng chỉ có hoàng đế mới họa được dung mạo của chính mình.
Muốn họa lại dung mạo Đức Kitô, chúng ta cần phải đánh bóng long mình cho sạch mọi vết nhơ, mọi tì ố của tâm hồn. Một khi đã nên sáng bóng như gương, chúng ta sẽ tiếp nhận được khuôn mặt rạng ngời của Chúa.
Khi Đức Maria và Thánh Giuse dâng Chúa Hài Nhi trong đền thánh, có biết bao tư tế và luật sĩ thông thái, giỏi giang, am tường Kinh Thánh, và hiểu rõ các lời tiên tri loan báo về Đấng Cứu Thế, nhưng họ đã không nhận ra Chúa. Duy chỉ có ông Simeon, và bà Anna đã nhận ra được dung mạo của Người.
Simeon và Anna đã dâng hiến trọn vẹn con người và cuộc đời, đã mài bóng đời mình bằng đạo hạnh và khiêm tốn, đã tôn thờ Chúa trong tin yêu và phó thác. Vì thế, dung mạo của Đấng Cứu Thế đã tỏ hiện sáng ngời trước mặt các ngài.
Simeon và Anna đã đón nhận Đấng Cứu Thế như những người nghèo hèn bé nhỏ. Các ngài đã được bồng ẵm Chúa, được thay mặt cho cả nhân loại nói lời đầu tiên tôn vinh Chúa đến cứu độ con người.
Lễ Thánh Gia mời gọi chúng ta nhìn vào các gia đình. Truyền thống gia đình ngày càng sút giảm. Ly thân, ly dị, trẻ em lang thang, thanh niên nổi loạn, phá thai, mại dâm, ma túy ngày càng gia tăng. Gia đình là nền tảng của xã hội. Nếu không có những gia đình lành mạnh thì không thể có một xã hội tốt đẹp. Cuộc sống của gia đình phải tỏa hương thơm của thiên đàng.
Hơn bao giờ hết, các gia đình chúng ta phải nhìn lên Thánh gia thất: một gia đình lý tưởng, đạ đức bình thường và chăm lo cho nhau. Thánh Luca đã ghi lại hình ảnh rất đẹp của Thánh gia như sau: “Đức Giêsu đi xuống cùng với ch amẹ, trở về Nadaret và hằng vân phục các ngài. Riêng mẹ Người hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong long. Còn Đức Giêsu ngày càng khôn lớn, và được Thiên Chúa cũng như mọi người thương mến” (Lc 2, 51-52).
Xã hội chúng ta không thiếu các mẫu gương đạo hạnh: Louis Pasteur, nhà bác học thời danh, đã tâm sự khi đặt tấm bia kỷ niệm tại gia đình ông: “Kính thưa cha mẹ thân yêu của con đã khuất bóng,các ngài đã khiêm tốn sống trong nếp nhà bé nhỏ này. Con mắc nợ công ơn cha mẹ về hết mọi điều…”.
Federic Ozanam, nhà hoạt động xã hội nổi tiếng của Giáo Hội Pháp cũng tâm sự: “Những lời khuyên nhủ dịu dàng của mẹ tôi, gương đạo đức, lòng nhiệt thành hâm nóng linh hồn nguội lạnh của tôi,khuyến khích nâng đỡ tăng sức mạnh cho tôi. Chính nhờ giáo huấn của người mà tôi có đức tin”.
Có lẽ thế giới biết nhiều đến Thủ Tướng Thái Lan, nhưng ít ai biết được cậu Chuam Leekpai còn là một người con giàu cảm xúc, hiếu thảo, và luôn nghĩ đến bậc sinh thành. Ông nói với mẹ: “Giờ đây, con đã là một chính trị gia và con không còn thời gian về thăm mẹ thường xuyên nữa. Điều này làm con cứ áy náy mãi. Tuổi mẹ càng cao thì nỗi lo của con càng nhiều. Do đó con cố gắng tìm mọi cơ hội về thăm mẹ”.
Đức Piô XI trong thông điệp về Giáo dục Kitô giáo có viết: “Nền giáo dụchữu hiệunhất và bền bỉnhất là nền giáo dục được nhận lãnh từ một gia đình Kitô giáo có qui củ và khuôn phép. Những gương lành của cha mẹ và của những người trong gia đình càng chiếu tỏa và bền bỉ, thì kết quả của giáo dục càng lớn lao”.
Lạy Đức Giêsu, xin dạy chúng con biết theo gương Chúa, luôn sống trung hiếu với Cha trên trời, thảo kính với ông bà cha mẹ, và sống hết tình với anh chị em chung quanh.
Xin cho chúng con luôn biết đánh bóng đời mình, bằng tấm long khiêm tốn và đạo hạnh, bằng việc tôn thờ Chúa trong tin yêu và phó thác, để dung mạo của Chúa ngày càng tỏ hiện sáng ngời trong cuộc đời chúng con. Amen. [Mục Lục]
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Bài Tin Mừng hôm nay mời chúng ta nhìn ngắm một gia đình rất đặc biệt với ba nhân vật độc đáo: Mẹ Maria, Thánh Giuse và Chúa Giê-su.
Trước hết, chúng ta hãy nhìn ngắm hài nhi Giê-su.
Đây là nhân vật bé nhỏ nhất trong gia đình nầy và cũng là nhân vật quan trọng nhất. Ngài là một huyền nhiệm vượt quá trí tưởng tượng của loài người.
Có ai ngờ một Đấng tạo dựng nên muôn loài muôn vật trong vũ trụ vô biên nầy lại chấp nhận hóa thành một bào thai nhỏ bé nằm trong lòng mẹ suốt chín tháng mười ngày và được sinh ra bởi một người mẹ trần gian là một thiếu nữ miền quê không được mấy người biết đến.
Có ai ngờ một Đấng vô cùng giàu sang, là chủ nhân của tất cả mọi kho báu trên toàn thế giới và trong cả vũ trụ càn khôn, giờ đây lại trở thành một trẻ thơ nghèo hèn, không có một mái nhà, không giường chiếu và không cả một chiếc nôi cỏn con… đến nỗi phải nằm run rẩy trong máng súc vật lót rơm, giữa một chuồng bò tứ bề trống trải chơ vơ giữa không gian vắng lặng.
Có ai ngờ Đấng nuôi dưỡng chim trời cá nước, ban phát lương thực cho tất cả người thế hưởng dùng lại cậy nhờ đến từng giọt sữa của người mẹ trần gian để được tăng trọng và lớn lên thành người.
Có ai ngờ một Đấng vốn là Thiên Chúa Ngôi Hai đồng quyền năng phép tắc như Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, có sức mạnh lay chuyển cả vũ trụ càn khôn, có quyền năng dập tắt bão tố… lại trở thành một trẻ thơ nhỏ nhoi, yếu đuối, thân mình bầm tím vì giá lạnh đêm đông, phải cậy nhờ đến sự ấp ủ của người mẹ trần gian để sống, phải cậy trông vào sự che chở của người cha nuôi vốn là một anh thợ nghèo miền quê, mới có thể lánh thoát lưỡi gươm oan nghiệt của bạo chúa Hê-rô-đê.
Ngoài ra, khi có một vị vua, một tổng thống hay thủ tướng một đất nước nào đó trong vai khách mời đến thăm chính thức quốc gia sở tại, thì những vị vua hay những nhà lãnh đạo cao cấp nhất của Chính Phủ sẽ trải thảm đỏ và ra tận sân bay để tiếp đón cách trọng thị, thì tại Bê-lem năm xưa, khi Chúa Tể trời đất đặt chân đến viếng thăm địa cầu và thăm viếng nhân loại, thì chỉ có những người chăn chiên nghèo khổ đến tiếp đón Ngài mà thôi.
Tiếp theo, chúng ta hãy nhìn ngắm nhân vật thứ hai trong gia đình nầy là Mẹ Maria.
Khi một người mẹ chuyển dạ sinh con, tối thiểu phải liệu cho bà một căn phòng kín đáo, thế mà khi chuyển dạ, Mẹ Maria chẳng tìm đâu được một căn buồng, mà phải nương thân nơi chuồng súc vật trống trải giữa cánh đồng hoang vu.
Nếu cùng cực lắm, không kiếm cho sản phụ một căn phòng kín đáo, ít nhất phải kiếm cho bà một chiếc giường, một tấm nệm hay tấm chiếu cho bà sinh con; đằng nầy, khi sinh con, Mẹ Maria không có giường êm, không nệm ấm, không được cả một manh chiếu đơn sơ, mà phải hạ sinh con ngay trên lớp rơm mỏng giữa chuồng bò!
Bao giờ sản phụ sinh con cũng có cô đỡ bên cạnh, để giúp sản phụ vượt cạn đầy khó khăn và cứu giúp bà thoát khỏi những nguy hiểm khó lường; đằng nầy, khi Mẹ Maria sinh con, chỉ có người bạn đời là thánh Giuse bên cạnh, mà người đàn ông thì chẳng biết phải xoay xở thế nào trong những trường hợp khó khăn như thế.
Còn nhân vật thứ ba là thánh Giuse.
Chắc chắn vào lúc bấy giờ, tâm hồn ngài đầy lo âu, buồn phiền và bối rối.
Lo âu vì thấy người bạn đời đang lúc chuyển dạ sinh con lại phải miệt mài gõ hết cửa nầy đến cửa khác ở các quán trọ ở Bê-lêm, mà không được một ai thương xót đoái hoài, nhường cho một chỗ trọ qua đêm.
Lo âu buồn phiền vì cuối cùng, đành phải đưa Mẹ Maria ra ngoài đồng vắng, dắt người bạn đời sắp vượt cạn vào một chuồng súc vật bẩn thỉu tanh hôi! Ngài cố tìm một tấm ván hay một vật gì đó tạm thay giường nằm cho Mẹ Maria cũng không có, thôi thì quơ đại ít rơm rạ vương vãi chung quanh để lót thành một ổ rơm nho nhỏ cho sản phụ có chỗ nằm.
Càng bối rối hơn khi đến giờ phút Mẹ Maria sinh con. Tìm đâu ra một cô đỡ trong nơi hoang vắng nầy! Biết làm thế nào trợ giúp một sản phụ đang sinh con! Mền không, chiếu cũng không. Thôi thì lót tạm ít rơm vào trong máng súc vật cho Hài Nhi mới sinh có một chỗ nằm thay nôi.
Ôi thôi! Càng ngắm, càng suy, càng thấy gia đình nầy thật là bi đát, cùng cực. Không ai trong chúng ta bị lâm vào hoàn cảnh đáng thương như thế.
***
Vì yêu thương nhân loại lỗi lầm, Ngôi Hai Thiên Chúa đã từ bỏ ngai trời xuống thế, chấp nhận sinh ra trong cảnh nghèo hèn cùng cực, hạ mình xuống tận đáy cuộc đời để chia sẻ cảnh lầm than khốn khổ của kiếp người. Qua sự việc nầy, Chúa muốn nói với chúng ta rằng: Hỡi những ai nghèo thiếu cùng cực trên thế gian, hãy vững lòng, hãy đứng vững và đừng tuyệt vọng vì có Ta đến chia sẻ sự túng cực của các con, cùng đồng hành với các con qua mọi gian lao của cuộc sống.
Và hỡi những gia đình đang lâm cơn quẫn bách nghèo túng, đừng lo âu sợ hãi, đừng xấu hổ vì gia cảnh nghèo túng của mình, vì gia đình của Ta hôm xưa còn lâm cảnh nghèo hèn khốn khổ hơn gia đình các con. Ta luôn ở cùng các con để che chở bảo vệ các con cho đến mãn đời. [Mục Lục]
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Vào ngày thành hôn của anh chị Trung và Hiếu, một người bạn của đôi vợ chồng nầy tặng cho đôi tân hôn bức tranh thánh gia thất Nadarét. Cuối bức ảnh có ghi dòng chữ: “Mến tặng thánh gia Trung-Hiếu. Cầu chúc thánh gia của Anh Chị nên giống thánh gia thất của Chúa Giêsu”.
Sau khi bức tranh nầy được treo lên tường, có người lên tiếng phê bình:
Tại sao lại viết là “thánh gia Trung-Hiếu”? Chỉ có một thánh gia thất duy nhất là thánh gia của Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh cả Giuse, chứ làm gì có cái gọi là “thánh gia Trung-Hiếu”. Viết như thế chẳng phải là làm giảm giá trị của thánh gia Nadarét sao?
Thế là từ lúc đó, nổ ra một cuộc tranh luận giữa hai nhóm có ý kiến đối lập ngay giữa tiệc cưới. Cuộc tranh luận rất sôi nổi và khá ồn ào vì hai phe đều tìm đủ mọi lý lẽ để biện minh cho quan điểm của mình. Để tiết kiệm thời gian, tôi xin gom lại những lý lẽ chính của đôi bên.
Nhóm bài bác cho rằng gia đình kitô hữu không thể gọi là thánh gia vì:
Thứ nhất, gọi như vậy là làm giảm giá trị của thánh gia thất Chúa Giêsu. Xưa nay, Giáo Hội chỉ dùng hai từ thánh gia để chỉ thánh gia Nadarét của Chúa Giêsu mà thôi.
Thứ hai, không ai chối cãi Chúa Giêsu, Mẹ Maria, thánh cả Giuse thật sự là ba đấng thánh. Gia đình nầy gồm có ba đấng thánh nên mới được gọi là thánh gia. Còn gia đình các kitô hữu gồm những người phàm, làm sao gọi là thánh gia được?
Nhóm ủng hộ bảo rằng: Gia đình các kitô hữu cũng là thánh gia vì các lý do sau đây:
Thứ nhất, bất cứ ai đã lãnh nhận bí tích thánh tẩy đều đã được thánh hiến, được trở nên thánh. Họ là thánh vì bí tích thánh tẩy làm cho họ trở nên chi thể của Đấng rất thánh là Chúa Giêsu. Thánh Phao-lô ngày xưa chẳng gọi các kitô hữu tại Cô-rinh-tô, Rô-ma, Ga-lát… là thánh đó sao?
Thứ hai, Chúa Giêsu đã lập bí tích hôn phối để thánh hiến đời sống gia đình, nâng gia đình kitô hữu lên một tầm cao mới.
Thứ ba, Công Đồng Vatican II gọi gia đình là Hội Thánh thu nhỏ (Hội Thánh tại gia) (xem LG 11, giáo lý công giáo 1656) và Đức Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II cũng thường gọi gia đình là Hội Thánh tại gia. Gọi như thế có khác gì gọi gia đình kitô hữu là thánh gia?
Thứ tư, theo giáo lý công giáo số 1657, gia đình “là nơi thể hiện đặc biệt chức tư tế cộng đồng của người cha, người mẹ, con cái và mọi phần tử trong gia đình”, “là cộng đồng ân sủng và cầu nguyện, là trường học phát triển các đức tính tự nhiên và đức mến Kitô giáo” (Glcg số 1666)
Ngoài ra, xét theo khía cạnh mục vụ, một khi các kitô hữu ý thức rằng gia đình mình đúng thật là thánh gia, họ sẽ cố công xây dựng gia đình sao cho xứng đáng với danh hiệu đó. Thế là những tệ nạn thường xảy ra trong đời sống gia đình có nhiều cơ may được xoá bỏ và những phẩm chất xứng hợp với một thánh gia sẽ được phát huy.
* * *
Khi xây dựng một ngôi nhà, chúng ta cần một bản thiết kế thật hoàn chỉnh hay ít ra cần dựa vào một ngôi nhà đẹp mà chúng ta ưa thích để dựa theo đó mà xây ngôi nhà của mình.
Hôm nay, nhân lễ kính thánh gia thất của Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh cả Giuse, Thiên Chúa muốn chúng ta nhìn ngắm lại một kiệt tác gia thất của Người, do chính Người xây dựng với sự hợp tác của thánh Giuse và Mẹ Maria và mời gọi chúng ta hãy xây dựng gia đình mình theo mô hình lý tưởng đó.
Xây dựng gia đình mình theo mô hình thánh gia Nadarét là mọi người trong gia đình phải cư xử với nhau như ba Đấng trong thánh gia nầy. Cụ thể là người chồng phải yêu thương và phục vụ vợ con như thánh Giuse đã yêu mến và phục vụ Mẹ Maria; người vợ phải yêu thương và săn sóc chồng như Mẹ Maria đã yêu mến và phục vụ thánh Giuse; cha mẹ phải yêu mến và chăm lo cho con cái như thánh Giuse và Mẹ Maria chăm lo phục vụ Chúa Giêsu; con cái trong gia đình phải hiếu kính mẹ cha, biết thờ cha kính mẹ, phụng dưỡng cha mẹ như Chúa Giêsu đã làm đối với Đức Mẹ và thánh Giuse.
Có như thế, gia đình tín hữu mới xứng đáng với danh hiệu là thánh gia, xứng đáng với hồng ân đã nhận ngày lãnh bí tích hôn phối, làm cho gia đình trở nên tổ ấm yêu thương hạnh phúc và thánh thiện. [Mục Lục]
Nếu con người là hình ảnh của Thiên Chúa, thì có thể nói rằng gia đình là hình ảnh của Ba Ngôi Thiên Chúa. Thiên Chúa của chúng ta không phải là một Thiên Chúa sống đơn độc, mà là một Thiên Chúa mang tính gia đình, trong đó Ba Ngôi khác biệt nhau nhưng yêu thương nhau, sống chung, làm việc chung, và kết hợp với nhau thắm thiết như trong một gia đình, tới mức độ tuy là Ba Ngôi nhưng chỉ là một Thiên Chúa duy nhất. Nếu Thiên Chúa là tình yêu, thì “Tập Thể Ba Ngôi” là một môi trường để Ba Ngôi Thiên Chúa thể hiện tình yêu của mình với nhau. Vì Ba Ngôi yêu thương nhau vô cùng, nên sự hiệp nhất của Ba Ngôi đạt được mức độ tối đa là trở thành một Thiên Chúa duy nhất. Tình yêu và sự hiệp nhất ấy tạo nên thiên đàng hay hạnh phúc của Ba Ngôi.
Cũng vậy, nếu gia đình là hình ảnh của Ba Ngôi, thì mọi thành viên trong đó phải yêu thương nhau, hòa hợp với nhau đến mức hiệp nhất với nhau. Nhờ đó gia đình trở thành một thiên đàng tại thế. Như vậy, mọi thành viên của gia đình đã được hưởng nếm trước phần nào hạnh phúc của thiên đàng mai sau. Hạnh phúc trong những gia đình yêu thương nhau – được biểu lộ và hình thành cụ thể bằng việc quan tâm, lo lắng và hy sinh cho nhau – chính là hình ảnh trung thực của thiên đàng vĩnh cửu. Trái lại, nếu các thành viên trong gia đình không yêu thương nhau, không sẵn sàng hy sinh cho nhau, thì họ sẽ biến gia đình thành hỏa ngục tại thế, là hình ảnh của hỏa ngục vĩnh cửu. Trong 8 cái khổ mà Đức Phật kể ra, có cái khổ gọi là “oán tắng hội khổ”, nghĩa là khổ vì không ưa nhau, ghét nhau mà lại phải sống chung với nhau.
- TÍNH ÍCH KỶ, NGUỒN GỐC BẤT HẠNH CỦA MỌI GIA ĐÌNH
Nhìn vào bất cứ một gia đình bất hạnh nào – nghĩa là một gia đình không hạnh phúc – ta luôn luôn thấy bóng dáng tính ích kỷ của một thành viên nào đó trong gia đình. Chính tính ích kỷ của thành viên này là nguồn gây nên đau khổ trong gia đình. Nếu thành viên ích kỷ ấy là người cha hay người mẹ, thì đau khổ trong nhà sẽ hết sức lớn lao. Gia đình nào càng có nhiều người ích kỷ, gia đình ấy càng bất hạnh. Gia đình mà càng có nhiều người sống vị tha, biết hy sinh cho người khác, gia đình ấy càng ít bất hạnh. Một gia đình mà mọi thành viên đều vị tha, đều quan tâm, chăm sóc và hy sinh cho nhau, đều sẵn sàng thông cảm và tha thứ cho nhau, gia đình ấy chắc chắn hạnh phúc.
Câu chuyện minh họa về thiên đàng và hỏa ngục sau đây thật phù hợp với thiên đàng và hỏa ngục của gia đình. Cả thiên đàng và hỏa ngục đều dùng bữa với những thức ăn y như nhau, trong khung cảnh giống y hệt nhau, trong đó mỗi người đều phải dùng một đôi đũa dài cả thước để ăn. Thiên đàng và hỏa ngục chỉ khác nhau ở chỗ này: trên thiên đàng, mọi người không ai tự gắp thức ăn cho mình, mà gắp cho người khác ăn, vì thế, ai cũng được ăn no. Còn trong hỏa ngục, mọi người chỉ biết nghĩ đến mình, chỉ biết gắp thức ăn cho mình, nhưng vì đũa quá dài, chẳng ai gắp cho mình được gì cả, thế rồi chẳng ai được no, hết giờ ăn mà đói vẫn hoàn đói, từ đó họ trở nên căm thù nhau.
Cũng vậy, trong gia đình, không ai tự tạo hạnh phúc cho mình được mà không cần đến người khác, nên nếu ai cũng chỉ biết lo cho hạnh phúc của mình, thì chẳng ai hạnh phúc cả, và rồi sẽ phát sinh đủ thứ đau khổ. Tuy nhiên trong gia đình, người ta có thể tạo hạnh phúc cho người khác, vì thế, nếu mọi người trong nhà đều biết lo cho nhau, tạo hạnh phúc cho nhau, thì ai nấy đều hạnh phúc.
Con người là hình ảnh của Thiên Chúa, mà Thiên Chúa là tình thương, nên bản chất của con người cũng là tình thương. Vì thế, chỉ khi con người sống phù hợp với bản tính của mình là yêu thương, và thể hiện cụ thể tình yêu thương ấy với những người chung quanh, thì con người mới hạnh phúc. Nếu con người sống ích kỷ, tức ngược lại bản chất yêu thương của mình, con người sẽ đau khổ và làm cho những người chung quanh đau khổ.
- LÀM SAO ĐỂ CÓ TÌNH YÊU THƯƠNG?
Nhưng làm sao người ta có thể yêu thương nếu không có một động lực, một nguồn yêu thương ngay từ trong lòng mình phát xuất ra? Làm sao có được nguồn yêu thương ấy? – Vì “tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa” (1 Ga 4, 7), nên chính “Thiên Chúa là nguồn yêu thương” (2 Cr 13, 11). Vì thế, muốn yêu thương, muốn loại trừ tính vị kỷ, con người phải kết hợp làm một với Thiên Chúa, nguồn tình thương. Kết hợp với Thiên Chúa là luôn luôn ý thức rằng mình “là hình ảnh của Thiên Chúa” (St 1, 27; 9, 6; Ep 4, 24), được tạo dựng giống như Thiên Chúa (x. St 1, 26; 5, 1), và “được thông phần bản tính của Thiên Chúa” (2 Pr 1, 4), một Thiên Chúa mà bản chất là yêu thương (x.1 Ga 4, 8.16).
Nếu bản chất của Thiên Chúa là yêu thương, mà ta giống Ngài, là hình ảnh của Ngài, được thông phần bản tính Ngài, tất nhiên bản chất của ta cũng là yêu thương. Ta không yêu thương hay không yêu thương đủ, là ta sống không đúng với bản chất của ta. Nhờ thường xuyên ý thức như thế, tình yêu và sức mạnh của tình yêu ngày càng lớn mạnh trong ta, khiến ta ngày càng yêu thương mọi người cách dễ dàng, và sẵn sàng làm tất cả để mọi người được hạnh phúc. Sống đúng với bản chất của mình là yêu thương, là hình ảnh Thiên Chúa, chính là sống thánh thiện. [Mục Lục]
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ – Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
- Lễ Thánh gia là lễ của mỗi gia đình. Văn hóa Đông phương đặt nền tảng gia đình trên đức Hiếu. Người nổi tiếng chí Hiếu nhất Đông phương là Vua Thuấn. Thiếu thời, Vua Thuấn là con nhà bần tiện. Bố là Cổ Tẩu dở dở ương ương, mắc tật nghiện rượu. Mẹ có tật lắm điều, ngồi lê mách lẻo. Anh là Tượng hỗn xược du đãng. Một cảnh gia đình địa ngục. Nhưng Thuấn dù nhỏ, ngày ngày ra đồng làm việc, thường kêu khóc với trời, tự mình nhận lấy tội lỗi của bố mẹ. Phụng sự bố mẹ rất kính cẩn, sợ hãi làm cho bố mẹ biết lo sửa mình (Kinh Thư ; Thuấn Điển 6 và Đại vũ mõ 21).
Nhờ đâu một con nhà tiện dân đã trở nên bậc thánh hiền chí hiếu?
Thứ nhất nhờ vào niềm tin trời đất thâm sâu sống động của Vua. Khổng Tử kể: Ngay còn nhỏ, Thuấn ngày ngày ra đồng làm việc với nước mắt, kêu khóc với Trời: “Đế sơ vàng vu điền, nhật hào khấp mân thiên”.
Thứ hai: “Vu điền” – ông ra đồng chăm chỉ làm việc để phụng dưỡng gia đình, làm sao nuôi nổi ba miệng lười biếng ăn chơi phung phá! Ông phải tận lực hy sinh làm việc mà không một lời phàn nàn than thân trách phận giữa cảnh gia đình đầy thói hư tật xấu.
Thứ ba: “Phụ tội dẫn thắc” – Thuấn còn hy sinh tự mình nhận lấy tội lỗi của bố mẹ. Một tinh thần trách nhiệm cao thượng. Người ta thường nói: Tội quy vu trưởng, pháp luật thường phạt cha mẹ khi con cái vị thành niên phạm pháp. Trái lại: ở đây tội quy vu ấu. Ấu thơ đã biết gánh lấy tội của gia đình để ăn năn kêu khóc với trời tha thứ và cứu giúp.
Thứ bốn: “Tái kiến Cổ Tẩu, quỳ quỳ trai lật” – Thăm viếng Cổ Tẩu kính cẩn, lo sợ đến mức nhịn ăn chay tịnh để chăm lo cho cha mẹ mọi sự, chỉ sợ cha mẹ buồn phiền than trách. Dù cha mẹ nhiều tật xấu đến đâu Thuấn cũng không dám tỏ vẻ bất kính.
Đức Hiếu của đứa con tiện dân đã thấu đến Đế Nghiêu, thấu đến Thượng Đế, cho nên Vua Nghiêu đã nhường cho Thuấn làm vua. Thuấn đã tu thân tề gia tốt đẹp, chắc chắn trị quốc, bình thiên hạ cũng được an vui thịnh vượng. “Đại hiếu tôn thân, kỳ thứ phất nhục, kỳ hạ năng dưỡng”: Đại hiếu thứ nhất tôn kính cha mẹ, thứ đến không làm nhục, sau là chăm nuôi (Lễ ký tế nghĩa).
- Lễ Thánh gia mới thực sự hướng dẫn chúng ta thi hành trọn vẹn đạo Hiếu theo đúng giới răn thứ bốn của Thiên Chúa: Đạo làm con, đạo làm cha mẹ, vợ chồng.
Trước hết, Đạo làm con phải biết nhớ: “Công cha như núi Thái sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”. Ơn sinh thành, ơn thương mến của cha mẹ đã chảy ra từ nguồn sống tình yêu của Thiên Chúa, ban cho con cái sự sống. Không có vàng bạc châu báu nào so sánh được: Ca dao nói: “Mạng sống hơn đống vàng”. Phúc Âm cũng dạy: “Dù được lời lãi cả thế gian mà mất mạng sống nào được ích gì”.
Sinh thành mạng sống con, cha mẹ còn hết lòng, hết trí khôn lo lắng ấp ủ âu yếm, đùm bọc. Mạng sống con cũng là mạng sống, là xương thịt của cha mẹ: “Máu chảy ruột mềm”. Con đau khổ, cha mẹ ăn không ngon, ngủ không yên. Và để cho mạng sống của con được tăng trưởng lớn khôn, cha mẹ đã đổ ra bao nhiêu mồ hôi nước mắt, và sức lực hy sinh, làm ăn nuôi dưỡng, dạy dỗ, những công ơn đó chồng chất cao hơn núi Thái sơn.
Con biết ơn cha mẹ thì phải thảo kính, yêu mến, chăm sóc, chia vui sẻ buồn, làm vinh danh cha mẹ nhất là lúc già yếu. Đừng bao giờ: “Con nuôi mẹ, con kể từng giờ”.
Đạo Nho còn biết dạy: “Sống thì lấy lễ mà thờ, chết lấy lễ mà táng, lấy lễ mà tế” (Luận ngữ II, 5) huống chi Đạo Chúa.
Thứ đến: Đạo làm cha mẹ biết đón nhận con cái như con cái Thiên Chúa ban cho mình. Ý thức rõ như vậy, Đức Maria và thánh Giuse đã mau mắn dâng con cho Thiên Chúa trong đền thờ. Ngoài ra, các ngài dâng con là để tạ ơn Thiên Chúa đã cứu sống dân tộc thoát ách nô lệ Ai cập trở về Đất Hứa vẻ vang. Vì thế, sinh ra, lớn lên, sống còn của con dân này là một ân huệ vĩ đại của Thiên Chúa ban. Họ đã hiến dâng, phó thác trọn vẹn cuộc sống con mình trong tay Thiên Chúa toàn năng.
Hôm nay cha mẹ Hài Nhi Giêsu dâng con trong đền thờ, còn đặc biệt dâng lên Chúa Cha một thế hệ mới, một thế hệ được thanh tẩy bằng nước và Thánh Thần, một thế hệ được ghi ấn tín Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần để làm nên một trang sử vinh quang muôn đời trong nước Trời.
Cho nên, sứ mạng làm cha mẹ là một ân huệ từ trời ban xuống. Cha mẹ được vinh phúc tiếp tay với Thiên Chúa cộng tác vào chương trình sáng tạo, mặc khải và cứu chuộc con cái.
Để thực hiện tốt đẹp thiên chức cao cả đó, cha mẹ phải biết xây dựng gia đình mình thành một tổ ấm, một cái nôi chan hòa “tình thương yêu êm ái, nhân hậu, khoan dung, hiền lành, nhẫn nại, chịu đựng và tha thứ cho nhau, cởi mở chân thành để liên kết với nhau trong mối giây bác ái yêu thương tuyệt hảo”.
Hơn nữa, cha mẹ phải tạo dựng gia đình thành một đền thờ, trong đó “dâng lên Thiên Chúa những bài Thánh vịnh, những khúc hát Thánh ca, do Chúa Thánh Thần linh ứng. Hãy dùng lời Chúa dạy dỗ răn bảo nhau cho thật khôn ngoan để lời Chúa Kitô sinh hoa kết quả dồi dào trong gia đình. Khi làm gì, nói gì, hãy làm và nói nhân danh Đức Giêsu Kitô, và nhờ Người mà cảm tạ Chúa Cha” (Bài II. Cl. 3, 12-21). Như thế gia đình chúng ta sẽ trở nên như gia đình Thánh Gia.
- Lễ Thánh Gia cho chúng ta thấy rõ Thánh Gia là đền thờ hoàn toàn dành riêng phụng thờ Thiên Chúa.
Giuse là Cha nuôi, nhưng hơn tất cả mọi người cha ruột thịt, Ngài đã âm thầm hy sinh, hiến trọn mạng sống mình để phụng dưỡng Con Thiên Chúa, bảo vệ an toàn gia đình thoát khỏi bàn tay khát máu của Hêrôđê, khỏi mọi gian nguy trên đường tỵ nạn băng qua sa mạc đến Ai cập và trở về Nagiareth bình an.
Maria, người mẹ thánh thiêng trinh trong tuyệt vời, luôn luôn sống với tinh thần tôi tớ của Thiên Chúa, sống dịu hiền, thương mến, thăm viếng, phục vụ bà con xóm làng, tích cực cộng tác với Con Thiên Chúa trong công trình cứu độ muôn dân và xây dựng Hội thánh. Quả thực, không một ai đứng kề thánh giá của con bằng Mẹ, không một ai sống giữa các môn đệ trong lúc cô đơn xao xuyến để cầu nguyện Thánh Linh xuống soi sáng và củng cố tinh thần các môn đệ bằng Mẹ.
Chúa Giêsu, Người chí hiếu, con thảo độc nhất của gia đình. Người con chí ái độc nhất của Thiên Chúa, đã sinh ra trong hang lừa hèn hạ, đã lớn lên trong cảnh lao động nghèo khó. Nhưng, cháu bé này là nguồn an bình muôn thuở cho những cụ già như Simêon ẵm bế, là nguồn hy vọng vinh phúc cho những bà góa neo đơn như Anna, là nguồn sáng soi đường cứu độ cho muôn dân và vinh quang cho Israel dân Ngài.
- Giêsu – Maria – Giuse, còn gia đình nào tầm thường như gia đình các Ngài! Còn gia đình nào siêu phàm như gia đình các Ngài! Xin dạy gia đình chúng con biết sống giữa cảnh phàm trần với tinh thần người con, người mẹ, người cha chí ái, chí nhân, chí thánh. Xin cho chúng con biết mừng lễ Thánh Gia với cõi lòng chan chứa yêu thương, với tâm trí đầy tràn niềm tin, và với tâm hồn chan hòa ơn thánh. Amen. [Mục Lục]
Để giúp con người có một môi trường thuận lợi để phát triển và thực tập tình yêu thương, Thiên Chúa đã tạo dựng và đặt con người sống trong gia đình. Khi vừa sinh ra, mọi người đều nhận được một tình thương dồi dào, vô điều kiện và vô vị lợi của cha mẹ – một tình yêu thuộc loại tốt đẹp nhất trên thế gian – đồng thời được mời gọi đáp lại tình yêu thương ấy. Đó là một bài tập hết sức dễ dàng về yêu thương mà mỗi người đều có thể thực tập ngay từ thuở nhỏ. Không gì dễ dàng bằng yêu thương người đã hết lòng yêu thương mình và hy sinh cho mình. Tình yêu đáp trả này tự phát sinh do mình nhận được từ cha mẹ mình quá nhiều. Đây là thứ tình yêu nhận nhiều hơn cho.
Lớn lên một chút, mỗi người khám phá ra, ngoài cha mẹ mình, thì các anh chị em mình cũng yêu thương mình bằng một tình yêu tương đối vô vị lợi. Với tình yêu này, con người phải tập cho nhiều hơn và nhận ít hơn so với tình yêu đối với cha mẹ. Ngoài gia đình, mỗi người còn có bạn bè do chính mình chủ động chọn lựa và yêu thương.
Đến khi trưởng thành, con người có tình yêu hôn nhân. Tình yêu này là một tình yêu do mình chọn lựa và tương đối có điều kiện: mình yêu và đòi hỏi người kia phải yêu lại, nếu đơn phương thì tình yêu sẽ khó tồn tại. Con người chủ động hiến thân và hy sinh cho người mình yêu với một ý chí tương đối tự do.
Đến khi có con cái, con người tự nhiên yêu thương con bằng một tình yêu vô vị lợi, vô điều kiện, không lựa chọn. Đó là tình yêu cao cả nhất và phản ảnh trung thực nhất tình yêu của Thiên Chúa mà con người kinh nghiệm được trong đời sống gia đình.
Như vậy con người thực tập yêu thương – từ dễ đến khó – trong môi trường gia đình. Trong gia đình, con người kinh nghiệm tình yêu một cách tự nhiên và sâu xa: con người được yêu và chủ động yêu, nhận hy sinh từ người khác và chính mình cũng hy sinh cho người khác.
Thế nhưng con người còn được mời gọi yêu một cách rộng rãi hơn, vượt khỏi phạm vi gia đình, để đến với những người ngoài, không ruột thịt máu mủ. Các tín đồ trong các tôn giáo, đặc biệt người Ki-tô hữu, còn được mời gọi yêu thương cả những người không hề quen biết, thậm chí cả kẻ thù. Yêu như thế khó hơn rất nhiều, nhưng nhờ áp dụng những kinh nghiệm về yêu thương đã có trong gia đình, việc yêu thương người ngoài gia đình, thậm chí kẻ thù, trở nên khả thi hơn.
Như vậy, vai trò của gia đình trong việc đào luyện tình yêu cho con người thật hết sức quan trọng, không gì thay thế được.
Nếu những người trong gia đình – là những người cùng máu mủ ruột thịt, những người tự nhiên yêu thương ta nhất và ta dễ yêu thương nhất – mà ta không yêu thương được, thì làm sao ta có thể yêu những người xa lạ, những người khó có cảm tình, nhất là những người thường gây bất lợi cho ta?
Kinh nghiệm cho tôi thấy, những ai đối xử đã không tốt với chính cha mẹ, với vợ, với chồng, với con cái, với anh em mình, thì khi họ đối xử tốt với những người khác, sự tốt ấy thật đáng nghi ngờ! Rất có thể chỉ là giả tạo để đạt một mục đích nào đó, chứ không thể là thực tình được! Vậy, các bậc cha mẹ hãy cho con cái mình những kinh nghiệm về yêu thương tốt đẹp nhất có thể. Đó là những gì tốt đẹp nhất mà họ có thể làm cho con cái họ!
Lạy Mẹ Maria, Mẹ và Thánh Giuse đã làm cho gia đình của mình trở thành một gia đình gương mẫu vì mọi trong đó đều yêu thương nhau. Xin cho mọi người trong gia đình con thực tập từ bỏ tính ích kỷ để biết yêu thương nhiều hơn, hy sinh cho nhau nhiều hơn, để nên thánh thiện hơn. [Mục Lục]
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Tục ngữ Việt nam có câu: “Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”. Đứa con nào cũng ít nhiều mang khí huyết của cha, mang thịt máu của mẹ.
Nếu trong sinh học, yếu tố di truyền là tất yếu thì trong đời sống luân lý, nề nếp gia phong cũng ảnh hưởng sâu xa đến con người. Trẻ thơ vốn dễ bắt chước. Đứa trẻ lớn lên trong gia đình sẽ nói ngôn ngữ của cha mẹ, học lề thói cư xử của anh chị, tiếp thu những quy ước, hít thở thấm tẩm bầu khí gia đình. Gia đình là vườn ươm. Vườn ươm cung cấp những tố chất đầu tiên cho cây giống. Những tố chất tốt sẽ giúp cây lớn mạnh, sinh hoa kết quả tốt đẹp. Gia đình là con đường. Con đường thẳng sẽ dẫn trẻ đạt ước mơ, lý tưởng.
Qua bài Tin Mừng, ta thấy Thánh Gia thật là một vườn ươm tốt đẹp đã ấp ủ hạt mầm Giêsu, một con đường thẳng tắp đưa Đức Giêsu tiến trên con đường vâng phục Thánh Ý Chúa Cha.
Thánh Giuse và Đức Maria đưa Hài Nhi Giêsu lên Giê-ru-sa-lem để dâng cho Thiên Chúa. Thực ra luật Mô-sê không buộc phải đưa con lên Đền Thờ, chỉ buộc nộp một số tiền nếu đó là con đầu lòng (Xh 13,13; 34, 20). Việc dâng Đức Giêsu trong Đền Thờ cho thấy Thánh Gia nhiệt thành chu toàn lề luật và tha thiết gắn bó với Đền Thờ.
Sự nhiệt thành đối với lề luật và tha thiết với Đền Thờ còn được tỏ lộ qua việc hằng năm các ngài hành hương lên Giê-ru-sa-lem. Đức Giêsu bắt đầu được tham dự cuộc hành hương khi lên 12 tuổi.
Như những người Do-thái thuần thành, hằng tuần các ngài vào hội đường Na-da-rét để đọc và nghe Sách Thánh. Việc đến hội đường vào ngày Sa-bát đã trở thành thói quen của gia đình và sau này Đức Giêsu vẫn duy trì. Tất cả những nề nếp đó in sâu vào Đức Giêsu.
Đức Giêsu tha thiết với Đền Thờ nên không những giữ trọn luật hành hương mà Người còn ra công tẩy uế (x. Ga 2, 13-17). Đức Giêsu yêu mến Đền Thờ đến nhỏ lệ thương cho Đền Thờ sẽ bị tàn phá cùng với Thành Thánh Giê-ru-sa-lem (x. Lc 19, 41; 21, 5-6). Đức Giêsu yêu mến lề luật nên không huỷ bỏ dù là một chấm, một phẩy, mà chỉ kiện toàn cho luật nên hoàn hảo (x. Mt 5, 17). Đức Giêsu vẫn thường xuyên vào Hội Đường, nên khi trở về thăm làng quê Na-da-rét, “Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày sa-bát và đứng lên đọc Sách Thánh” (Lc 4, 16).
Xem thế đủ biết nề nếp đạo đức gia đình đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến cuộc đời Đức Giêsu như thế nào. Chắc chắn Đức Giêsu không chỉ thừa hưởng từ nơi Thánh Giuse và Đức Maria lòng yêu mến lề luật, gắn bó với Đền Thờ, thói quen siêng năng nghe và đọc Lời Chúa, mà còn thừa hưởng nơi các ngài sự mau mắn vâng phục Thánh Ý Chúa, thái độ hiền lành khiêm nhường, tinh thần phục vụ quên mình, sự chuyên chăm làm việc, sự ân cần âu yếm với con cái… mà ta thấy bàng bạc trong những lời Người giảng dạy và nhất là trong đời sống của Người. Chính trong bầu khí gia đình nề nếp ấy, Đức Giêsu đã phát triển về mọi mặt, “càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa”.
Gia đình thật quan trọng. Chính gia đình quyết định tương lai trẻ thơ. Gia đình là vườn ươm. Hạt mầm trẻ thơ có lớn mạnh được là nhờ vườn ươm có đầy đủ nước, phân bón và đất tốt. Gia đình là bầu khí quyển. Bầu khí có trong lành bổ dưỡng thì trẻ thơ mới phát triển được về mọi mặt. Gia đình là con đường. Đường có ngay thẳng, có định hướng thì tương lai trẻ thơ mới tươi sáng không đi vào ngõ cụt.
Lạy Thánh Gia, xin nâng đỡ gia đình chúng con. [Mục Lục]
Quý ông bà anh chị em thân mến!
Nên thánh, làm thánh là mơ ước của mọi người Kitô hữu. Ai cũng muốn làm thánh. Ai cũng muốn được vào Nước Trời. Nhưng con đường nên thánh đòi hỏi chúng ta phải biết từ bó ý riêng để ý Chúa được thực hiện trong cuộc đời chúng ta. Con đường nên thánh đòi hỏi chúng ta phải vào cửa hẹp và tránh tìm sự dễ dãi bản thân. Vì đường thênh thang thì nuông chiều bản thân và tính xác thịt. Đường thênh thang chỉ dẫn tới diệt vong. Còn đường hy sinh, đường từ bỏ mới giúp cho chúng ta chiến thắng sự yếu duối bản thân để nên thánh từng ngày trong cuộc sống.
Nhìn vào gia đình thánh gia, chúng ta thấy các ngài luôn đi vào con đường hẹp. Các ngài luôn sống công chính trước mặt Chúa. Sự công chính hệ tại ở việc để thánh ý Chúa được nên trọn trong cuộc đời các ngài. Chúa Giêsu hằng luôn tìm kiếm ý Chúa Cha và thực thi. Thánh Giuse đã đón nhận ý Chúa khi nhận Maria về nhà làm vợ. Mẹ Maria đã bỏ ý riêng để sống cho ý Chúa qua lời thưa xin vâng. Nếu Chúa Giêsu không đón nhận ý Chúa Cha thì chén đắng cứu độ sẽ không thể thực hiện. Nếu Mẹ Maria không từ bỏ ý riêng để sống cho ý Chúa thì mùa xuân của ơn cứu độ vẫn chưa thực hiện. Nếu thánh Giuse không bằng lòng đón nhận Mẹ Maria vì ý Chúa thì sự nguy hiểm thật ghê sợ có thể xảy đến với Mẹ. Thế nhưng, ý Chúa các ngài đã thực thi. Chương trình của Chúa Cha đã hoàn tất nhờ sự vâng phục của các ngài. Cũng nhờ sự chung lòng chung ý mà gia đình thánh gia luôn gìn giữ được sự bình an và hạnh phúc trong cuộc sống hằng ngày.
Thực vậy, nếu trong gia đình mà mỗi người một ý, gia đình ấy sẽ tan nát, chẳng ai nghe ai. Trong gia đình mà ai cũng đề cao ý riêng của mình, thì gia đình ấy sẽ là một hỏa ngục, vì lúc nào cũng xảy ra tranh cãi tương tàn. Nhưng nếu mỗi người biết bỏ ý riêng để ý Chúa được thực hiện, thì gia đình ấy sẽ có những giây phút bình an hạnh phúc. Chính khi biết từ bỏ ý riêng, con người mới khiêm tốn đón nhận nhau, yêu thương nhau hầu tránh được những bất hòa đổ vỡ. Nhất là biết đón nhận nhau vì Chúa, thì chắc chắn sẽ xây dựng được một gia đình thánh, một thiên đường hạnh phúc ngay ở cuộc đời này.
Thực thi ý Chúa không phải là lời mời gọi mà là luật buộc chúng ta, vì không phải những ai kêu lạy Chúa, lạy Chúa là được vào Nước Trời đâu mà là những ai thực thi lời Chúa mới được vào Nước Trời.
Có một câu chuyện kể rằng: Một nông dân nghèo được vào thiên đàng, ông nhìn thấy người ta mang những vật rất kỳ lạ vào trong nhà bếp. Ông thắc mắc và lên tiếng hỏi: Cái gì thế? Có phải để nấu súp không?
Không phải. Đó là những cái tai của con người. Khi sống ở trần gian, tai giúp họ nghe những điều tốt lành, nhưng họ không làm điều tốt lành đó. Khi chết, chỉ có tai của họ được vào thiên đàng thôi, những phần khác của cơ thể thì không được vào.
Một lát sau, người nông dân lại nhìn thấy người ta mang vào nhà bếp những vật kỳ lạ khác. Ông cũng lên tiếng hỏi: Cái gì thế? Có phải để nấu súp không?
Không phải. Đó là những cái lưỡi của con người. Khi sống trên đời, lưỡi khuyên bảo người khác làm điều tốt và sống tốt, nhưng chính họ lại không sống; không làm những điều tốt lành đó. Khi chết, chỉ có lưỡi của họ được vào thiên đàng thôi, những phần khác của cơ thể thì không được vào.
Gia đình nào cũng muốn được hạnh phúc. Gia đình nào cũng muốn thuận vợ thuận chồng để gia đình thăng tiến. Điều tiên quyết là mỗi người hãy để cho ý Chúa dẫn dắt. Hãy trở thành một khí cụ để thực hiện chương trình của Chúa. Hãy là những người không dừng lại ở lời nói lạy Chúa, lạy Chúa mà là những người luôn lắng nghe và thực thi Lời Chúa.
Ước gì, mỗi gia đình trong giáo xứ chúng ta đều là những gia đình thánh. Ước gì từng người luôn là thánh khi biết chết đi cái tôi của mình để sống cho gia đình và nhất là cho ý Chúa được thể hiện. Amen. [Mục Lục]
(Trích website ‘Giáo Phận Thái Bình’)
Gia đình là nền tảng của Xã hội và Giáo Hội. Thế nhưng một thực tế là, ở nhiều nơi, “cái nôi” đó đang bị đe dọa, đang bị lung lay tới tận gốc rễ. Gia đình đang mất dần vai trò là “tổ ấm” của mình do tình trạng lục đục trong hôn nhân của các cặp vợ chồng. Hậu quả của những đổ vỡ đó dẫn đến việc nhiều đứa trẻ phải sống trong cảnh thiếu tình cha, vắng tình mẹ; dần dà trở thành những nạn nhân của những tệ đoan xã hội.
Nhận thấy tầm quan trọng của gia đình trong việc Giáo dục con cái, Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, trong tông huấn về gia đình “Familiaris Consorto” đã khuyến cáo các bậc phụ huynh: “Cha mẹ phải nhìn nhận rằng, chính họ là những nhà giáo dục đầu tiên và trên tất cả đối với con cái. Vai trò giáo dục của họ quyết liệt đến nỗi thật khó tìm được bất cứ điều gì có thể đền bù vào sự thất bại của họ. Cha mẹ phải nhận trách nhiệm tạo bầu khí gia đình đầy linh hoạt trong tình yêu và tôn kính Thiên Chúa và mọi người, để sự phát triển hoàn mỹ về cá tính và xã hội được nẩy nở trong con người. Vì vậy, gia đình là trường học đầu tiên cho tất cả những đức tính Giáo hội và xã hội mà bất cứ xã hội nào cũng cần phải có”. Muốn được như vậy, Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy cùng nhìn ngắm vào mẫu gương gia đình Nazarét.
Từ mẫu gương Gia đình Nazarét
Khi chiêm ngắm những tấm ảnh gia đình Thánh Gia, chúng ta thường thấy một cảnh sống thật thanh bình: Đức Mẹ ngồi khâu vá, Thánh Giuse đang làm mộc, còn Chúa Giêsu đang quan sát cha làm việc. Nếu cứ nhìn vẻ bề ngoài như vậy, bất cứ ai cũng đều nghĩ rằng, đời sống gia đình Thánh Gia quả là một đời sống lý tưởng, bởi nhịp sống mỗi ngày cứ trôi đi một cách hoàn toàn phẳng lặng. Thế nhưng, trong thực tế, gia đình Thánh Gia cũng gặp phải những khó khăn, những sóng gió như bất cứ một gia đình nhân loại nào khác.
Còn thử thách nào lớn hơn cảnh nghèo. Vì nghèo mà biết bao gia đình sinh ra bất hoà, ấy thế mà Thánh Gia đã phải trải qua những kinh nghiệm của kiếp nghèo. Ngay khi Chúa Giêsu chuẩn bị ra đời, gia đình Thánh Gia đã bị người ta xua đuổi, bị hất hủi đến nỗi phải trú ngụ trong chuồng bò lừa. Thê thảm hơn nữa, phải sinh con giữa bầy súc vật, không giường chiếu chăn màn.
Còn gì buồn hơn là bị thù ghét, bị săn đuổi? Thánh Gia sống hiền lành khiêm nhường, thế mà phải chịu đựng sự thù ghét của Hêrôđê. Vừa sinh ra, còn trẻ còn non nớt mà cha mẹ đã phải bồng bế con chạy trốn, xa quê hương đất nước, sống nơi đất khách quê người.
Còn cảnh nào bi đát bằng cảnh vợ chồng hiểu lầm nhau? Thế mà Thánh Giuse đã hiểu lầm Đức Mẹ khi Đức Mẹ thụ thai bởi quyền phép Đức Chúa Thánh Thần. Ai đã trải qua cảnh nghi ngờ bị phản bội sẽ hiểu Thánh Giuse đã bị giày vò đau đớn đến mức nào.
Còn gì khiến cha mẹ buồn hơn khi thấy con cái không ngoan ngoãn vâng lời, bỏ nhà ra đi? Vậy mà Thánh Giuse và Đức Mẹ đã phải chứng kiến cảnh đứa con ngoan ngoãn của mình tự động ở lại Đền Thờ mà không xin phép cha mẹ. Các ngài vất vả lo âu tìm kiếm thì ít, nhưng buồn phiền đau khổ thì nhiều. Làm sao các ngài tránh khỏi buồn phiền khi nghĩ rằng người con mà các ngài rất mực yêu quý đã không vâng lời cha mẹ?
Những sóng gió mà Thánh Gia đã phải đương đầu như thế có lẽ nhiều và nặng nề hơn những gia đình bình thường. Thế nhưng các ngài vẫn giữ được hạnh phúc gia đình. Vậy nhờ bí quyết nào các ngài đã vượt qua được biết bao cơn sóng gió như thế?
Trước hết các ngài luôn tìm thánh ý Chúa. Mỗi khi gặp gian nan thử thách, các ngài không tìm ý riêng mình, cũng không tìm ý thích của người đời, nhưng luôn đi tìm ý Thiên Chúa. Tìm ý Chúa mạc khải trong Kinh Thánh, qua các biến cố xảy đến. Tâm sự với Chúa trong giờ cầu nguyện. Hỏi ý kiến Chúa nơi các vị đại diện.
Khi biết được thánh ý Chúa, các ngài lập tức mau mắn vâng lời. Đức Mẹ muốn giữ mình đồng trinh, nhưng khi biết ý Chúa muốn cho Người làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Mẹ liền thưa: “Này tôi là nữ tỳ của Chúa, tôi xin vâng lời thiên sứ truyền”. Thánh Giuse đang muốn bỏ đi, nhưng khi biết ý Chúa muốn cho Người ở lại, Người đã vâng lời ngay không ngần ngại.
Sau cùng, các ngài luôn quên mình vì hạnh phúc của mọi người trong gia đình. Thánh Giuse tuy là gia trưởng, nhưng đã hết tình phục vụ Đức Mẹ và Đức Giêsu. Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, nhưng lại xưng mình là tôi tớ của Thiên Chúa. Còn Đức Giêsu là Thiên Chúa, nhưng lại trở thành người con bé nhỏ nhất trong gia đình.
Đến Gia đình chúng ta
Ngày nay, nhiều gia đình gặp khủng hoảng, lâm vào cảnh cơm chẳng lành canh chẳng ngọt, vì đã không biết áp dụng những bí quyết của Thánh Gia. Mỗi khi gặp khó khăn, thay vì cầu nguyện, đọc Phúc Âm để tìm ý Chúa thì lại đi tìm ý kiến ở những nơi mê tín dị đoan. Thay vì vâng lời Chúa qua các vị bề trên thì lại chỉ tìm ý riêng mình. Thay vì khiêm nhường quên mình thì lại kiêu ngạo tự ái, bắt người khác phải phục vụ mình.
Vậy đâu là phương thế giúp chúng ta có thể trở nên những gia đình mẫu mực như lòng Chúa ước mong? Lời Chúa trong thứ của Thánh Phaolô tông đồ gửi tín hữu Côlôxê (Cl 3,12-21) đã cho chúng ta biết: “Anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hoà và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia”. Người Việt Nam có câu: “Một sự nhịn, chín sự lành”. Trong đời sống gia đình, làm sao có thể tránh khỏi những lúc xô xát, cãi cọ… nhưng nếu, vợ chồng biết nhường nhịn nhau thì cửa nhà sẽ êm ấm. “Thuận vợ thuận chồng tát bể Đông cũng cạn” là vậy. Ở đây, lý do mà Thánh Phaolô đưa ra khiến ta phải tha thứ cho nhau là vì: Chúa đã tha thứ những lỗi lầm cho chúng ta (x. Cl 3, 13).
Tiếp đến, để giữ được mối thuận hảo trong gia đình, thì: “Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo” (Cl 3,14). Lòng bác ái ở đây phải phát xuất từ con tim chân thành, không kiêu căng, không tự ái, như trong “Bài ca đức ái” mà thánh Phaolô đã dạy: Bác ái là tha thứ, là tin tưởng cậy trông tất cả. Là thông cảm và luôn thứ tha.
Sau cùng, thánh Phaolô khuyên chúng ta: “Anh em có làm gì, nói gì, thì hãy làm hãy nói nhân danh Chúa Giê-su và nhờ Người mà cảm tạ Thiên Chúa Cha” (Cl 3,17). Mỗi khi hành xử, chúng ta hãy đặt câu hỏi rằng: tôi làm điều này, nói điều kia có nhân danh Chúa hay không?
***
Đức Gioan Phaolô II đã viết: “Hôn nhân và gia đình là một trong những tài sản quí báu nhất của nhân loại” (Tông thư Familiaris consortio, số 1). Đã là tài sản quý, thì ai cũng phải có bổn phận giữ gìn, nâng niu và trân trọng. Mừng lễ Thánh Gia thất hôm nay, Giáo Hội ước muốn mỗi gia đình chúng ta hãy nhìn lên tấm gương của gia đình Nazarét để học biết cách gìn giữ hạnh phúc gia đình mình. Nguyện chúc cho tất cả các gia đình luôn sống trong sự bao bọc chở che của tình yêu Chúa, để mai ngày, mọi thành viên trong gia đình chúng ta sẽ được cùng hân hoan vui mừng đoàn tụ với nhau trên thiên quốc để ca tụng tình yêu Chúa muôn đời. Amen. [Mục Lục]
(Suy niệm của Lm. Minh Anh)
Anh chị em thân mến,
Khi các bài ca của thiên thần ngưng bặt,
Khi những chòm sao trên nền trời Bêlem lặng khuất,
Khi ba vua đã trở lại quê nhà,
Khi các mục đồng cùng đoàn vật đã rút lui,
Thì bấy giờ, công việc Giáng Sinh lại bắt đầu
để tìm kiếm những gì đã mất,
để hàn gắn những gì đổ gãy,
để các tâm hồn được chữa lành,
để các nước được dựng xây trên công lý và hoà bình…
và để nhân loại được sống trong một nền văn minh mới, văn minh tình thương Kitô.
Vậy mà tất cả ấy lại được bắt đầu từ một mái ấm, từ một gia đình, gia đình Nazareth mà chúng ta quen gọi là gia đình Thánh Gia.
Như bao gia đình khác, Thánh Gia cũng đã trải qua những ngày nắng ấm, những chiều giông bão; cả những khoảnh khắc an vui lẫn những phút giây bồi hồi; nhiều lúc rộn rã tiếng cười, bao lần sùi sụt tiếng khóc.
Thử nhìn lại cái thuở ban đầu lưu luyến ấy của đôi bạn trẻ Giuse – Maria. Từ phút truyền tin, từ buổi đón nhau về cho đến ngày sinh con giữa đồng không mông quạnh, hay khi phải ẵm con đỏ hỏn làm khách trọ quê người…, Thánh Gia phải đương đầu với bao thử thách. Thử thách bên ngoài do hoàn cảnh, thử thách bên trong như các trình thuật Tin Mừng cho thấy, “Ông Giuse liền chỗi dậy, và đang đêm, đưa Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai Cập”; “Con ơi, sao con làm thế, này cha con và mẹ phải lo lắng tìm con?”; “Cha mẹ không biết rằng con phải lo việc nhà Cha con sao?”… Đó là cả một khủng hoảng, một thử thách. Ngước nhìn lên hang đá, bóng thánh giá đã thấp thoáng ở đó.
Ấy thế, kính thưa Anh Chị em,
Gia đình ấy vẫn là một gia đình hạnh phúc nhất trần gian, gia đình ấy vẫn trở nên thước ngọc khuôn vàng cho mọi gia đình trong nhân loại. Bởi lẽ, gia đình đó là một gia đình kính sợ Chúa, một gia đình cầu nguyện, một gia đình mà con cái là tất cả của cha mẹ và cha mẹ là tất cả của con cái. Ở đó, cha mẹ là cả một bầu trời cho con cái và con cái là cả một bầu trời của cha mẹ.
Ở đó, có một người cha chăm chỉ làm việc, một người mẹ ít nói nhưng cầu nguyện nhiều và cả hai cùng ra sức làm gương tốt để nuôi dạy và giáo dục trẻ Giêsu nên người, nên thánh. Ở đó, người con Giêsu hằng vâng lời tùng phục cha mẹ mình.
Trước bao khủng hoảng của cuộc sống hôm nay, nền đạo đức luân lý gia đình đang hấp hối, không ít gia đình đang đối diện bên bờ vực đổ vỡ. Đời sống vật chất của một xã hội tiêu thụ và hưởng thụ đang chực nuốt chửng cái giá trị đạo đức truyền thống của gia đình. Cha mẹ ít có thời giờ cho nhau, chẳng có thời giờ để ở với con cái. Chưa bao giờ mà con cái vuột mất khỏi tầm tay cha mẹ như hôm nay. Cha mẹ mất con ngay khi con đang ở trong nhà. Gương lành gương tốt đang trở nên một cái gì xa xỉ và hiếm hoi. Đó là chưa nói đến gương mù gương xấu nhan nhản trên báo chí, trên phim ảnh, trên truyền hình…
Hỡi những người làm cha làm mẹ, cả những người làm con, hãy nhìn lên Thánh Gia. Hãy chiêm ngắm Giuse, Maria và trẻ Giêsu: những tấm gương ngời sáng của một người cha, một người mẹ và một người con hết lòng vì gia đình. Hãy làm sống lại truyền thống gia phong Á Đông của cha ông.
Chuyện kể về một người chuyên nuôi cá cảnh. Một hôm, trong kỳ hè, khi đang dạo chơi trước các quầy hàng dọc theo bờ biển, anh thấy một con cá ngũ sắc tuyệt đẹp trong một chậu thủy tinh ở quầy. Đó là một con cá nước mặn xinh xắn mà anh chưa từng thấy, anh quyết định mua về. Về đến nhà, anh ra sức chăm sóc nó và áp dụng những phương pháp tốt nhất của một nhà chuyên môn.
Trước hết, anh đặt cá vào chậu nước mặn, cá lội tung tăng trong môi trường quen thuộc. Thế nhưng, một tuần sau, với sáng kiến, anh thêm vào một ít nước ngọt, mỗi ngày một ít. Cứ thế, anh tăng dần nước ngọt cho đến khi chú cá quen hẳn với môi trường mới. Không dừng lại ở đó, anh tiếp tục luyện cá. Mỗi ngày, anh bắt đầu đổ vào chậu một ít bùn, và cứ thế, sau nhiều tuần, nhiều tháng, lượng bùn được tăng lên cho đến khi con cá quen hẳn với việc ngày ngày nằm trên mặt bùn đớp mồi như một loài bò sát. Chưa hết, anh tập cho cá ra khỏi chậu và lẽo đẽo theo anh như một con cún cưng. Anh đã thành công, vì mỗi lần anh đi đâu, con cá màu ngoan ngoãn theo sau. Cho đến một ngày kia, chuyện đã xảy ra khi anh có việc sang nhà một người bạn, có chú cá cùng đi. Lúc trở về, trời đổ mưa, anh phải chạy thật nhanh và quên mất chú cá. Sực nhớ, anh quay lại tìm, nhưng chẳng thấy đâu cho đến khi gặp một vũng nước trên đường, thì hỡi ôi, chú cá yêu quý của anh nằm chết trong đó vì nó không biết bơi.
Anh Chị em,
Câu chuyện khiến chúng ta rùng mình sởn ốc khi nhớ đến trách nhiệm và bổn phận của một người làm cha làm mẹ trong việc giáo dục và làm gương sáng cho con cái. Vì “nửa cuộc đời còn lại của một con người được hình thành từ những thói quen có được từ nửa cuộc đời trước đó”. Thói quen cầu nguyện, thói quen đạo đức, thói quen lễ phép, thói quen dùng thời giờ, thói quen học hành, thói quen dùng tiền…, nghĩa là giáo dục thế nào, kết quả thể ấy.
Muốn được như thế, gia đình chúng ta phải là một gia đình mà Thiên Chúa phải chiếm địa vị tối thượng tuyệt đối trong bậc thang các giá trị. “Không ai hơn Chúa, không chi bằng Chúa, Chúa trên hết, Chúa trước hết”. Bởi lẽ, gia đình được dựng xây và phát xuất từ gia đình yêu thương của Thiên Chúa Ba Ngôi. Nếu Thiên Chúa không chiếm địa vị độc tôn tối thượng, mọi trật tự sẽ đảo lộn. Có Chúa, gia đình sẽ là một gia đình cầu nguyện. Nhưng để trở nên một gia đình cầu nguyện, để nuôi dưỡng đời sống đức tin, chúng ta phải lưu ý đến ba hình thức cầu nguyện:
- Trước hết là hình thức cầu nguyện riêng tư, cá nhân. Mỗi người trong gia đình cầu nguyện riêng với Chúa. Đời sống đức tin phải được đặt nền tảng trên việc trải nghiệm cá nhân với Chúa. Một trong những món quà quý báu nhất mà cha mẹ có thể ban tặng cho con cái là tập tành dạy dỗ và làm cho chúng biết yêu thích cùng thưởng thức những giây phút cầu nguyện một mình. Không cách nào để thực hiện điều đó tốt hơn là dùng chính những gương sáng cầu nguyện của mình.
- Hình thức thứ hai của việc cầu nguyện trong gia đình là cầu nguyện chung: kinh nguyện gia đình. Kinh nghiệm cho thấy, các gia đình bỏ kinh, bỏ cơm chung… là dấu hiệu cho thấy sự rạn nứt. Có hình ảnh nào dễ thương hơn khi mọi người được lắng nghe Lời Chúa trong những giây phút này. Hãy để Chúa Thánh Thần dạy dỗ mỗi khi đêm về nhiều hơn thay vì cả nhà ngồi chầu trước con quái vật một mắt để nghe con người dạy bảo.
Thống Tướng Douglas MacArthur, Tham Mưu Trưởng Lục Quân Hoa Kỳ Quân Đội Philippines thập niên 1930, người đã để lại một câu nói bất hủ: “In war, there is no substitute for victory”, “Trong chiến tranh, không có gì thay thế được chiến thắng”; vậy mà trong tiểu sử của ông còn có một câu nói bất hủ hơn: “Tôi là một quân nhân chuyên nghiệp, tôi hãnh diện về điều ấy. Nhưng tôi còn hãnh diện hơn, hãnh diện hơn rất nhiều vì được làm một người cha… và niềm hy vọng của tôi là: Khi tôi đã về bên kia thế giới, thì con tôi vẫn nhớ đến tôi không phải với những hình ảnh oanh liệt ở chiến trận mà là những hình ảnh ở nhà tôi, khi tôi cùng đọc với nó những lời kinh thường đọc hằng ngày: “Lạy Cha chúng con ở trên trời…”.
- Cuối cùng, cầu nguyện với cộng đoàn, Nhà Thờ phải là ngôi nhà thứ hai của mỗi gia đình. Ở đó, cùng với cộng đoàn, mỗi người thờ phượng và tạ ơn Thiên Chúa, được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa và các Bí Tích cùng những sinh hoạt không thể thiếu khác với cộng đoàn dân Chúa.
Lễ Thánh Gia hôm nay là dịp để chúng ta tự vấn về việc cầu nguyện trong gia đình của mình. Cầu nguyện có phải là một phần sống chết của gia đình tôi không? Cụ thể hơn là chúng ta – cha mẹ, con trai, con gái – đã góp phần và làm gương sáng vào đời sống cầu nguyện trong gia đình thế nào?
Để kết thúc, chúng ta cùng hiệp thông cầu nguyện với Nguyên Soái Douglas McArthur khi ông đang ở chiến trường Philippines trong những ngày mở đầu cuộc chiến Thái Bình Dương.
“Lạy Cha, xin ban cho đứa con của con đủ sức mạnh để biết được lúc nào nó yếu đuối, đủ dũng cảm để đối diện với chính mình khi nó cảm thấy sợ hãi… Xin đừng để cho đứa con của con chỉ biết ước muốn mà không dám hành động… Xin đừng để nó đi vào con đường dễ dãi tiện nghi, nhưng hãy hướng dẫn nó đi vào con đường bắt buộc nó phải cố gắng vượt qua những khó khăn thử thách.
Xin hãy tập cho nó đứng vững trong bão tố, nhưng lại biết thông cảm với những ai gục ngã.
Xin hãy ban cho đứa con của con có một trái tim trong sạch, có một mục đích cao cả, biết tự chủ lấy mình trước khi muốn làm chủ người khác, biết lo lắng cho tương lai mà không bao giờ quên lãng quá khứ.
Và khi Chúa đã ban cho nó tất cả những điều ấy, xin cũng hãy ban cho nó có đủ tính hài hước để có thể luôn nghiêm nghị nhưng không bao giờ nghiêm nghị một cách quá đáng.
Như vậy, là cha nó, con dám tự nhủ rằng, con đã không sống một cách vô ích”.
Mừng kính Thánh Gia hôm nay, chúng ta cầu nguyện cho các bậc làm cha mẹ luôn ý thức tầm quan trọng của việc hình thành những chiếc khuôn giáo dục nhân cách, đạo đức cho con cái. Xin cho mọi thành phần trong gia đình luôn biết làm gương sáng cho nhau, gương sáng cầu nguyện, gương sáng yêu thương quên mình. Ở đó, tình yêu, chứng tá hùng hồn nhất của Tin Mừng luôn được hâm nóng và toả sáng cho mọi người chung quanh. Nguyện xin Thánh Gia luôn che chở, cầu bầu và ban bình an cho gia đình Anh Chị em trong Mùa Giáng Sinh hồng ân và suốt cả Năm Mới này. Amen.
(Tham khảo thêm New Sunday & Holy Day Liturgies by Flor McCarthy) [Mục Lục]
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
Chúng ta cùng cả Giáo Hội Việt Nam dành năm 2014 cho việc nhìn lại đời sống gia đình để cùng nhau làm cho Tin Mừng trở nên mới mẻ và thành động lực sống cho gia đình. Lý do Giáo Hội Việt Nam và Giáo phận chúng ta chọn năm nay cho việc Sống và loan báo Tin Mừng là vì trong những năm vừa qua nhìn lại lại đời sống của các gia đình, nó đã mất đi nhiều vẻ đẹp và sự tươi sáng của một mái ấm, mà thay vào đó, gia đình đang chịu sức ép và sự công phá nặng nề bới các khuynh hướng của xã hội đưa đến sự đổ vỡ, bất hạnh và nạn nhân đầu tiên của các cuộc chiến trong gia đình chính là con cái.
Ai cũng biết rằng gia đình là tế bào đầu tiên của xã hội, là Hội Thánh tại gia, thế nhưng nhiều gia đình đã bỏ quên đời sống cầu nguyện, đã không còn phải là một tổ ấm hiệp nhất yêu thương, đã không còn là nơi an toàn cho con cái và sự sống, và mất đi nhiệt tâm sống đạo và giới thiệu về Chúa Kitô cho người bên cạnh.
Nhìn vào những bản thống kê gần đây thực sự đã gây lo ngại cho tương lai của các gia đình, các cuộc hôn nhân không tình yêu, hôn nhân vì kinh tế với người ngoại kiều gia tăng. Tình trạng hôn nhân tan vỡ đã lên đến mức báo động khoảng 40%, trong đó người Công Giáo khoảng 15%. Tình trạng bỏ quê lên thành phố hoặc vào Nam làm ăn khiến cho hàng chục triệu người phải ly tán xa gia đình vì công ăn việc làm. Con số ca nạo phá thai ở một số các bệnh viện lớn khoảng 300.000 ca trong một năm… và bao nhiêu vấn đề về kinh tế, lối sống khác nữa đang ảnh hưởng đến gia đình.
Trong bối cảnh ấy chúng ta mừng lễ Thánh Gia Chúa Giêsu Đức Mẹ và Thánh Giuse, đồng thời mừng các gia đình kỷ niệm giáp năm ngày thành hôn, đây là dịp tốt nhất để chúng ta nhìn vào mẫu gương gia đình của Chúa để soi rọi và điều chỉnh gia đình của mình.
Không phải chỉ ngày nay mới có nhiều khó khăn cho gia đình, nhưng có thể nói thời nào cũng có những khó khăn riêng của nó, và vì thế Giuse Maria cũng có những khó khăn riêng trong gia đình của các Ngài, nhưng các Ngài vẫn giữ gìn được sự bình an và làm cho gia đình mình trở thành một gia đình tuy nghèo nàn đơn sơ, nhưng rất ấm cúng, hạnh phúc và thánh thiện. Các Ngài đã làm cách nào?
Các Ngài đã biến gia đình mình trở thành một gia đình cầu nguyện. Nói như thế không có nghĩa là lúc nào họ cũng đọc kinh, mà là gia đình của các ngài luôn sống trong bầu khí cầu nguyện, luôn có tâm tình cầu nguyện. Vì Giuse Maria rất ý thức về sự hiện diện của Chúa trong gia đình của mình, Đức Giêsu vừa là con, song lại vừa là Thiên Chúa đang ở trong gia đình, nên mọi công việc, mọi lo toan trong gia đình, hai ông bà đã làm vì Chúa và làm mọi việc để cho Chúa được lớn lên trong gia đình. Chính vì thế họ dễ dàng nhận ra tiếng nói của Thiên Chúa qua lời mộng báo đem trẻ Giêsu và Mẹ Người trốn qua Ai Cập để tránh nguy hiểm cho Giêsu.
Chắc chắn nhìn vào khung cảnh của hang đá giáng sinh chúng ta đã có thể thấy được bầu khí đạo đức thánh thiện và yêu thương toát lên từ gia đình này. Gia đình này đã nêu gương cho tình tình yêu chung thủy. Có những lúc Giuse bị “cám dỗ” giải quyết vấn đề theo thói thường của xã hội, tức là chấp nhận một cuộc ly hôn, bỏ trốn một mình. Thế nhưng trong hoàn cảnh ấy, Giuse vẫn dằn vặt để mong tìm kiếm thánh ý Thiên Chúa trong thử thách đầu đời cuộc sống gia đình của mình. Vì trăn trở và lo lắng cho Maria, nên Giuse đã không tố cáo Maria, mà lại đón nhận Maria về nhà theo lời của Sứ thần mộng báo. Điều đó chứng tỏ Giuse đã chọn để trung tín trong cuộc sống hôn nhân mà Chúa đã muốn, là đón nhận và yêu thương Maria như là vợ của mình.
Kế đến Gia đình Thánh Gia nêu gương bảo vệ sự sống. Sự sống là quà tặng của Thiên Chúa, thuộc chủ quyền của Thiên Chúa, con người không bao giờ được phép định đoạt cho đứa con này được sống, được sinh ra, đứa kia phải chết. Giuse và Maria ý thức rất rõ mầm sống trong lòng của Maria là chính Thiên Chúa nữa. Vì thế mà Giuse và Maria đã hết lòng để bênh vực và bảo vệ sư sống này. Khi vua Herode ra lệnh tiêu diệt tất cả các hài nhi trong vùng, thì Giuse đã dựa vào giải pháp của Thiên Chúa, đó là đem Hài nhi và Mẹ Người trốn qua Ai Cập. Một cuộc tẩu thoát như thế quả thật là nhiều nguy hiểm gian nan, nhưng bằng mọi giá, Giuse đã đem Maria và Hài nhi ra đi ngay lúc nửa đêm để tránh bàn tay độc ác của Herôđe và bảo vệ sự an toàn cho hài nhi. Rồi khi được lệnh trở về, Giuse cũng đã khôn ngoan để chọn vùng Nazaret là một làng quê bình yên để cư ngụ giúp cho sự an toàn của hài nhi và cả gia đình.
Sau cùng, Gia đình Thánh gia đã nêu gương cho chúng ta trong việc sống và loan báo Tin Mừng. Nếu hiểu Tin Mừng là tin vui cứu độ, tin giải thoát cho nhân loại và chính con người của Chúa Giêsu là Tin Mừng, Ngài đến từ Thiên Chúa để ở với con người, thì Giuse Maria quả thật đã trở thành tấm gương sống và loan báo Tin Mừng này. Giuse Maria đã sống Tin Mừng bằng cách mở rộng tâm hồn để cho Thiên Chúa, Đấng cứu thế bước vào tâm hồn và chi phối cuộc đời của mình. Cả Giuse và Maria không thể hiểu hết những lời giải thích của sứ thần về việc đầu thai của Hài nhi, của việc đón nhận Hài nhi và đặt tên là Giêsu, song ông bà đã xin vâng không hề nghi nan. Trong khung cảnh Giáng sinh thì chính Giuse và Maria đã giới thiệu Hài nhi mới sinh bọc trong khăn và đặt nằm nơi máng cỏ cho các mục đồng, cho các nhà đạo sĩ và chắc chắn các mục đồng các đạo sĩ không chỉ thờ lạy Hải nhi mà còn được ẵm bế hài nhi và tin rằng Ngài là tin vui cho toàn dân.
Thưa quý OBACE, với trách nhiệm làm cha mẹ, có khi nào chúng ta tự đặt vấn đề với nhau hoặc với chính mình để tìm nguyên nhân tại sao gia đình mình không hạnh phúc? Tại sao gia đình mình hay lục đục cãi vã…? Đừng tránh né sự thật hãy đặt vấn đề với chính lương tâm của mình chúng ta sẽ tìm được câu trả lời.
Nhiều gia đình hôm nay đã để cho cái ti vi và các chương trình trên đó thống lĩnh suốt ngày trong gia đình và khiến họ không còn giờ cho việc đọc kinh mỗi tối, không còn giờ để nói chuyện với nhau, và thậm chí bữa cơm gia đình mọi người cũng dán mắt vào cái tivi và không còn cười đùa được với nhau nữa. Vì không nói chuyện được với nhau, khiến họ cũng không thể hiểu nhau và không còn thông cảm yêu thương nhau được nữa.
Nhiều cha mẹ vì ích kỷ hẹp hòi, vì thiếu lòng quảng đại mà họ biến gia đình mình trở thành lò sát sinh, giết chết nhiều đứa con của mình. Một gia đình như thế sẽ không thể có bằng an trong tâm hồn và vì thế sẽ không thể nào có bình an trong gia đình, ngược lai chỉ có sự dằn vặt và cắu gắt mà thôi. Nhiều gia đình khác đã không biết phải dạy dỗ con cái thế nào, đã để cho công việc, ăn uống say sưa, cờ bạc, cá độ và bạn bè chiếm hết thời giờ của con cái, khiến cho con cái cảm thấy lạc lõng ngay trong gia đình.
Hãy tạ ơn Chúa vì hồng ân gia đình Chúa ban cho mỗi người, và tạ ơn Chúa vì món quà là vợ, là chồng, là con cái Chúa đã ban tặng cho gia đình. Hãy đón nhận nhau như là quà tặng của Thiên Chúa để biết trân trọng đối với nhau và nhất là trân trọng với Đấng đã trao tặng mình. Hãy nhìn vào gia đình Thánh gia để học ở nơi đó tấm gương của người chồng, người vợ thánh này, mà biết vun đắp cho gia đình mình trở nên một gia đình thánh thiện, ấm cúng, thuận hòa.
Điều chúng ta cần quan tâm không chỉ là gia đình chúng ta ăn cái gì, mua sắm cái gì, điều mà mọi người cần phải đầu tư nhiều hơn đó là gia đình chúng ta sống như thế nào, có hạnh phúc hay không. Đó mới là điều đáng hãnh diện và mơ ước. Khi vun đắp cho gia đình mình mỗi ngày như thế, thì chúng ta sẽ là gia đình sống và làm chứng về Chúa cho người chung quanh. Amen. [Mục Lục]
Đoạn Phúc âm được đề nghị với chúng ta hôm nay thuật lại những sự kiện khá đơn giản, xét về bản chất chúng ta. Nếu coi đó như một đoạn văn, không hơn không kém thì có thể đặt một vài câu hỏi, về chi tiết thôi, chẳng hạn: sau khi dâng Con trẻ Giêsu trong Đền thờ, ông Giuse và bà Maria có thể trở về Nazaret ngay không? Vụ lánh nạn sang Ai Cập xảy ra lúc nào? Chúng ta đừng tìm kiếm trong Phúc âm một thứ tự rõ ràng, chắc chắn, cho ngày tháng và sự kiện. Điều chắc là thời kỳ Con trẻ Giêsu hết là ‘bé thơ’, giờ là một ‘nhi đồng’, đang lớn lên về phạm vi thiêng liêng – hai ông bà đã trở lại Nazarét rồi. Nghiên cứu đoạn văn người ta có thể dừng lại ở hai nhận vật Simêon và Anna, để suy niệm về sự kiện tâm trông đợi Đấng Cứu Thế và cầu nguyện của hai vị về lời tiên tri Simêon, khiến cho Maria lo sợ một kết cục đau khổ (cuộc thương khó của Đức Giêsu). Tốt hơn, chúng ta hãy chọn một đề tài cao hơn, đó là một tư tưởng lớn nằm trong hạ tầng toàn bộ Phúc âm và được thánh Luca diễn tả như sau: Con trẻ lớn lên, thân thể phát triển và được ơn khôn ngoan sung mãn. Ý niệm lớn đó là ý niệm tăng trưởng.
1) Chúng ta gặp thấy sự tăng trưởng thiêng liêng trước hết ở bà Maria và ông Giuse. Maria được gọi là người có phúc lớn, vì đã tin, trong biến cố Truyền tin. Rõ ràng là ở giây phút ấy nàng tin vào đề nghị của Thiên Chúa yêu cầu nàng ưng thuận một sự kiện xảy ra lúc đó. Đức tin của nàng không cho nàng xem thấy trước phối cảnh tương lai của toàn thể lịch sử Đức Giêsu, lúc đó mới sinh ra trong lòng nàng. Do một sự ưng thuận mỗi ngày, liên tục, nàng tiến dần vào mầu nhiệm định mệnh đời mình. Niềm tin Maria là 1 niềm tin luôn luôn tăng trưởng. Lời tiên tri của Simêông cho nàng biết trước 1 đường đời đau khổ, nhưng không cho rõ chi tiết. Do sự ưng thuận ngày một đổi mới, nhắc đi nhắc lại, Trinh nữ Maria hiểu rõ thêm Thiên Chúa đòi hòi gì ở nàng, biết rõ thêm Con Trẻ Giêsu là ai. Đối với Giuse cũng vậy. Đây là một điều quan trọng đối với chúng ta. Dường như mầu nhiệm tăng trưởng nhân tính của Đức Giêsu có mục đích là nhờ đức tin đưa chúng ta tiến vào mầu nhiệm tăng trưởng thần tính của chúng ta. Sự tăng trưởng thần tính đó, Maria và Giuse là những người đầu tiên được hưởng. Thật là một điều tốt lành khi nghĩ rằng hai ông bà rất gần với chúng ta trong điểm đó. Vì đã trải qua nên biết rõ, hai ông bà cầu bầu cho niềm tin của chúng ta tăng trưởng tốt.
2) Con trẻ lớn lên… Điều ghi nhận này liên hệ trực tiếp đến sự tăng trưởng thể chất của Đức Giêsu. Đó là một sự kiện trong phần lịch sử đã qua, thật sự qua rồi. Tuy nhiên có một sự kiện khác thuộc lĩnh vực mầu nhiệm, được hoàn tất trong lịch sử của chúng ta, ngày nay Đức Kitô tiếp tục lớn lên. Thật vậy, Người không những là Giêsu, một người như những người khác, đã sống ở Palextin từ năm nào đến năm nào đó. Người còn là Con Thiên Chúa đã xuống thế để thần hoá nhân loại. Người tiếp tục lớn lên trong nhân loại. Thánh Phaolô nói đên sự xây dựng thân thể mầu nhiệm Đức Kitô cho đến khi chúng ta hết thảy đạt thấu sự duy nhất trong kính tin và am tường về Con Thiên Chúa, mà nên người thành toàn, đạt đến tầm vóc xứng với sự viên mãn của Đức Kitô (Eph.4,13). Như vậy, Đức Kitô lớn lên trong tâm khảm sâu thẳm của mỗi người chúng ta. Dịp lễ Thánh Gia Thất, Giáo Hội dùng một đoạn Phúc âm gợi lên một trong những mối quan tâm chủ yếu của mọi gia đình, đó là sự lớn lên của đứa con. Chúng ta có thể từ đó suy niệm về sự lớn lên của Đức Kitô trong đại gia đình loài người, nghĩa là trong tâm hồn mỗi chúng ta. [Mục Lục]
Khi gợi lại kỷ niệm đáng ghi nhớ về gia đình của mình, Đức cố Hồng Y Marty, nguyên Tổng Giám Mục Giáo phận Paris, đã nói: “Tôi đã bập bẹ những tiếng đầu tiên về Thiên Chúa, khi nhìn mẹ tôi và cha tôi đọc kinh cầu nguyện. Tôi đã học biết sự sống, học biết sự chết, tôi đã học biết thế nào là yêu thương trong cuộc sống hằng ngày, khi tôi giao tiếp với thân nhân và những người quen thuộc. Tôi yêu mến Thiên Chúa, yêu mến Giáo Hội như đã yêu mến mẹ tôi. Tôi không học mà cũng biết người phụ nữ đó đã cho tôi sự sống và mạc khải cho tôi tình yêu”. Gương sáng của cha mẹ đã giáo dục cho con cái nhiều điều tốt.
Chúa Giêsu đã sinh ra trong một gia đình, mà lại là một gia đình nghèo. Ngài cũng có cha mẹ như bao trẻ thơ khác, như mỗi người chúng ta. Và cha mẹ Ngài cũng là những người lao động, phải sống bằng mồ hôi nước mắt như hầu hết các gia đình khác. Là Thiên Chúa, Ngài đã đến với loài người như một con trẻ, bé bỏng, cần đến sự đùm bọc, che chở của những người thân. Cũng như bao trẻ em khác, Ngài cũng bị những biến cố lớn nhỏ của gia đình và xã hội chi phối, đưa đẩy, ảnh hưởng.
Rồi những năm thơ ấu, những thời kỳ thơ ấu và thành niên, Chúa Giêsu đã sống bên cạnh Đức Maria, Mẹ Ngài và Thánh Giuse, cha nuôi Ngài. Ngài cũng đã phải tập đi, tập nói, tập đọc, tập viết. Ngài cũng đã phải học Thánh Kinh, Lề Luật. Ngài cũng đã phải tập lao động với những dụng cụ như cưa, bào, đục… trên những khúc cây, tấm ván. Ba mươi năm tại Nagiarét là một chuỗi ngày bình dị, như hàng trăm gia đình cùng thôn làng, như hàng triệu cuộc sống của con người qua các thời đại.
Đó là thời kỳ ẩn dật, vì Chúa Giêsu không để lộ chân tính đích thực của mình ra cho những người chung quanh biết. Đó cũng là thời gian chuẩn bị cho quãng đời công khai của Ngài, theo nghĩa là Ngài tích lũy cho mình những kiến thức và kinh nghiệm cần thiết cho việc rao giảng Nước Thiên Chúa sau này.
Dưới một khía cạnh khác, chúng ta có thể nói, đó là những năm tháng trao đổi, cho và nhận giữa Con Thiên Chúa và gia đình nhân loại, được đại diện nơi Thánh Giuse và Đức Maria. Nếu chỉ là Thiên Chúa, Đấng Cứu Thế không cần phải nhận ở nhân loại một thứ gì cả. Nhưng vì Ngài là Thiên Chúa làm người và ở giữa chúng ta, nên Chúa Giêsu đã nhận rất nhiều của những người thân, nhất là của Mẹ Maria: cưu mang, sinh đẻ, nuôi dưỡng, giáo dục. Ngài cũng đã nhận rất nhiều từ cộng đoàn Nagiarét, từ Hội đường Do Thái, từ cuộc sống của những người chung quanh, nhất là những người nghèo khổ, bệnh tật, lao động. Chúng ta khó hình dung được những điều đó, vì chúng ta có khuynh hướng đặt Thiên Chúa ở chốn cao xa mà quên điều hệ trọng là Thiên Chúa đã làm người, đã nhập thể và nhập thế.
Chúa Giêsu đã nhận rất nhiều từ gia đình nhân loại, nhưng thực ra Ngài còn cho nhiều hơn, vì Ngài đã cống hiến tất cả cho chúng ta, cả bản thể Thiên Chúa, cả năm tháng, cuộc sống và cái chết của Ngài, một cách âm thầm, khiêm tốn vô vị lợi.
Trong cuộc sống bình dị nhưng chất chứa bao tình thương ấy, Chúa Giêsu đã sống thân mật với Cha Ngài, đã sống hiếu thảo với cha mẹ trần thế của Ngài, đã sống chan hòa bác ái với những người chung quanh. Rồi cha mẹ Ngài là những người kính sợ Thiên Chúa cũng đã sống hết mình với Thiên Chúa, tận tụy và thương yêu con cưng của mình. Giữa Đức Maria và Thánh Giuse thì thật là một mối liên hệ có một không hai trong lịch sử loài người, chắc chắn tình yêu thương đậm đà và lòng tôn kính là những nét đặc thù nhất, khiến Thánh Giuse được gọi là người công chính, còn Maria là người có phúc hơn mọi người phụ nữ.
Sách Huấn ca hôm nay đã nhấn mạnh đến lòng hiếu thảo của người con đối với cha mẹ trong gia đình, khiến chúng ta dễ hình dung ra cách sống của Con Thiên Chúa làm người dưới mái nhà Nagiarét. Thư thánh Phaolô gởi tín hữu Côlôsê đề cập đến mối quan hệ giữa những người được Thiên Chúa yêu thương, tuyển chọn sống thành gia đình, gia đình của Thiên Chúa: đó là lòng từ bi, nhân hậu, là khiêm cung, ôn hòa, là nhẫn nại chịu đựng, chấp nhận nhau và tha thứ cho nhau. Gia đình của Chúa Giêsu, Mẹ Maria và Thánh Giuse là một gia đình đã sống trọn vẹn hơn ai hết tinh thần ấy, vì các thành viên trong gia đình thánh này đều là những tôi tớ của Thiên Chúa, trong ý nghĩa là mỗi vị và cộng đoàn ba vị đều lãnh nhận từ Thiên Chúa một sứ mạng đặc biệt. Gia đình Nagiarét là gương mẫu, là lời mời gọi đối với mỗi người chúng ta, đối với mỗi gia đình Công giáo ngày nay.
Ngày nay, hơn bao giờ hết, với sự tiến bộ của ngành khoa học nhân văn và xã hội, con người càng khám phá ra chiều kích xã hội của mình và tầm quan trọng của cộng đoàn gia đình trong đời sống xã hội. Gia đình là cái nôi đầu tiên đón tiếp con người và cung cấp cho con người những điều kiện cần thiết của cuộc sống và hạnh phúc. Đối với các kitô hữu, gia đình còn mang một ý nghĩa khác nữa: đó là một cộng đoàn yêu thương phản ảnh cộng đoàn của Thiên Chúa, theo gương gia đình Nagiarét. Trách nhiệm thật lớn lao của các bậc làm cha làm mẹ. Chức năng nhiệm vụ ấy cha mẹ chỉ có thể hoàn thành được nếu biết yêu thương và tha thứ như chính Chúa Kitô đã yêu thương và tha thứ cho chúng ta. Đó là quy luật trọng yếu trong mối quan hệ giữa vợ chồng, giữa con cái và cha mẹ. Vì trong cuộc sống gia đình, con người có thể biến cuộc sống ấy thành thiên đàng hay hỏa ngục trần gian. Cuộc sống gia đình tạo cho cha mẹ những cơ hội quý báu để thực hiện tinh thần yêu thương quên mình, mưu tìm hạnh phúc cho người khác. Cuộc sống gia đình luôn luôn đòi hỏi cha mẹ phải dẹp bỏ ý riêng mình, quan điểm riêng của mình, để tôn trọng và giúp đỡ con cái phát triển về mọi mặt.
Do sự khác biệt về tính tình, môi trường giáo dục, tuổi tác và sở thích, nên chuyện xung đột, căng thẳng, là chuyện đương nhiên không thể tránh được giữa vợ chồng, giữa cha mẹ và con cái. Nhất là trong một vài hoàn cảnh khó khăn về kinh tế tài chính. Muốn vượt qua những cảnh xung đột, những giờ phút căng thẳng ấy, mỗi người, dù là vợ hay chồng, cha mẹ hay con cái, đều phải thấm nhuần tinh thần của Chúa Kitô: “Tôi đến để phục vụ chứ không để được phục vụ”. “Ai muốn làm đầu thì hãy làm tôi tớ phục vụ mọi người” (x. Mt 20,26-28). Ở đây, cha mẹ có trọng trách nêu gương cho con cái, vợ chồng có trách nhiệm làm chứng cho nhau tình yêu quảng đại và vô vị lợi của Thiên Chúa. Lời căn dặn của Thánh Phaolô phải là phương châm cho các bậc cha mẹ cũng như con cái trong gia đình: “Anh em có làm gì, nói gì, thì hãy làm hãy nói nhân danh Đức Giêsu Kitô, và nhờ Ngài mà cảm tạ Chúa Cha”(Cl 3,17).
Như thế, gia đình kitô hữu, theo gương đời sống gia đình của Thánh Gia Thất, với tình yêu thương và tha thứ, với tinh thần phục vụ quảng đại và vô vị lợi, sẽ là ngọn đèn tỏa sáng, sẽ là cái nôi hạnh phúc và đem lại hạnh phúc cho anh em đồng bào trong xã hội chúng ta hôm nay. [Mục Lục]
Những biến cố chung quanh việc thụ thai và sự ra đời của Đức Giêsu đánh dấu rằng Người là một con trẻ đặc biệt, với một vận mệnh duy nhất. Thông qua Người, lời hứa đối với ông Apbraham sẽ được nên trọn. Người sẽ trở thành niềm hy vọng và an ủi của dân Israen, và là ánh sáng cho các dân tộc. Nhưng Tin Mừng cũng nói về sự khước từ Đức Giêsu, một sự khước từ sẽ gây ra một lưỡi gươm đâm thấu qua trái tim của Đức Maria. Cha mẹ chia sẻ niềm vui và nỗi đau khổ của con cái họ, và ngược lại.
Không có lý do gì để tin rằng Đức Maria và thánh Giuse hiểu biết rõ ràng trọn vẹn hoặc về vận mệnh vĩ đại của Con Trẻ Giêsu. Tuy nhiên, khi đón nhận Người vào trong cuộc đời của mình, và nuôi dưỡng Người trong lòng tin và tình yêu thương, các ngài đã góp phần trong việc giúp đỡ Người nhận ra vận mệnh của mình. Tin Mừng cho thấy rằng tại nhà Nagiarét, các ngài đã tạo ra một bầu khí mà trong đó, Đức Giêsu có thể phát triển đến khi trưởng thành.
Mỗi đứa con đều là một quà tặng của Thiên Chúa. Và mỗi đứa con đều có một vận mệnh duy nhất. Nhưng vận mệnh đó còn ẩn giấu đối với cha mẹ. Họ thắc mắc không biết con cái họ sẽ trở thành gì. Một cách tự nhiên, họ mong muốn điều tốt đẹp nhất cho chúng. Nhưng tất cả điều mà họ có thể làm được, đó là khai mở cho chúng trên con đường đời của chúng. Vượt lên trên tất cả, họ phải cẩn thận để không ngăn cản kế hoạch của Thiên Chúa đối với con cái.
Cha mẹ nên cầu xin Thiên Chúa hướng dẫn con cái của mình theo những chọn lựa mà chúng thực hiện. Nếu chúng ta phải hoàn tất điều mà Thiên Chúa muốn chúng ta hoàn tất, thì tất cả chúng ta đều cần sự hướng dẫn của Người.
Nói một cách lý tưởng, gia đình phải là một cộng đoàn yêu thương nhỏ bé. Bầu khí trong gia đình là yếu tố quan trọng nhất. Bầu khí đó được xác định do phẩm chất của các mối tương quan. Cha mẹ và con cái đều đóng góp vào việc tạo ra bầu khí đó.
Cuộc sống gia đình mang rất nhiều thử thách. Gia đình không chỉ biết tiếp nhận; mà còn phải biết cống hiến nữa. Những mối dây liên kết trong gia đình làm cho chúng ta được phong phú, nhưng cũng ràng buộc chúng ta. Chúng lôi kéo theo những ràng buộc của trách nhiệm và tình yêu thương. [Mục Lục]
Thánh Luca không nói gì cho chúng ta về thời niên thiếu của vị tiền hô, tất cả thời tuổi trẻ của vị này đều chìm trong im lặng và cô đơn. Trái lại, thời niên thiếu của Chúa Giêsu được kể lại trong ba trường hợp. Trường hợp thứ nhất là lễ cắt bì, chỉ được kể lại trong có một câu. Sự cốt yếu của lễ này là đặt tên Giêsu, tên đã được Thiên thần nói trước, tên này nêu rõ bản tính của Hài nhi trong những ngày sắp tới. Chính do danh hiệu đó mà Giáo Hội mừng kính bằng một lễ đặc biệt, cũng chính danh hiệu đó mà biết bao người không ngớt chiêm niệm và đã là nguồn hân hoan vui sướng cho các nhà Thần bí: danh hiệu mà theo kiểu nói của Thánh Phaolô, mọi gối phải quỳ lạy ở trên trời, lẫn dưới thế và cả dưới hoả ngục.
Đang khi đó thì Thánh Luca lại viết lại cho chúng ta về lễ dâng Chúa trong đền thờ với nhiều chi tiết hơn và khiến ta phải lưu ý tới hai điều sau:
- Những biến cố.
Nhìn bên ngoài, chẳng thấy có gì đáng lưu tâm. Hàng năm có cả trăm đôi cha mẹ trẻ bước lên Đền thờ tiến vào cửa trước dành cho các phụ nữ để được thanh tẩy theo nghi lễ và chuộc lại đứa con mới sinh. Luật buộc thanh tẩy vì sự thụ thai và sinh con đã liên kết chặt chẽ với tội lỗi và với đam mê hỗn độn. Theo chương trình của Thiên Chúa, cả hai việc đó, phải là cái gì mang tính chất bí tích vì đã chuyển đời sống siêu nhiên đồng thời với đời sống tự nhiên. Nhưng tội đã làm nào loạn nguồn mạch và như vậy, tội lẫn vào việc lành, ‘nhân loại đầy trần tục’ với thần thiêng. Lễ tế được đặt ra đối với người mẹ là bà cần phải thanh tẩy để có thể bước vào đền thờ. Đức Maria không có tiền để mua một con chiên làm lễ tế và phải đành lòng như bao người mẹ nghèo nàn khác, dâng một ccặp chim câu để làm lễ vật. Việc chuộc lại đứa trẻ trai được đặt ra vì tất cả những của đầu mùa, nơi ruộng nương, nơi đoàn vật và nhất là nơi con người đều đặc biệt thuộc về Giavê. Như vậy cậu con trai phải chuộc lại để có thể sống đời sống của mình. Tất cả những điểm đó chẳng có chi đặc biệt và đáng lưu tâm.
Tuy nhiên, nội dung của sự việc mới có khác biệt. Đức Maria rõ ràng là người Mẹ chẳng có dính bén chút gì để phải thanh tẩy. Mẹ đâu thụ thai bởi phàm nhân, mà do phép Chúa Thánh Thần. Mẹ cũng chẳng có một ước muốn xấu xa gì, vì Mẹ ‘không biết đến người nam’. Vì thế, việc chuộc lại Hài nhi chỉ mang hình thức bên ngoài. Chúa Giêsu xét là con đầu lòng của Chúa Cha, thì thuộc quyền sở hữu của Người. Nhưng Ngài sẽ chuộc lại những người khác và giá Ngài phải trả là giá máu của tim Ngài, chứ không phải bằng tiền bạc.
Như Đức Kitô tuân phục Lề luật Môisen hay sắc lệnh của Xêsarê, người Kitô hữu cũng phải phục tùng các quyền hành bên ngoài điều khiển nhân loại bằng ý muốn hay với phép của Thiên Chúa và tuân hành các quy luật như những người khác trong lãnh vực luật pháp. Bên ngoài chẳng có gì lạ kỳ đánh dấu sự hiện hữu và đời sống của người Kitô hữu. Vì không nhất thiết là sự biến đổi nội tâm trước nhan Chúa phải kéo theo sự cách mạng môi trường mình sống.
- Những lời nói
Những biến cố này có thể qua đi mà ít được biết tới nếu không có một người đến gặp đôi vợ chồng trẻ để chào thăm Hài nhi với những ngôn từ lạ lùng. Ông này không phải là tư tế, mà chỉ là một người dân thường, một người thực công chính, đang chờ đợi ‘niềm an ủi của Israel’, chờ đợi Đấng Messia. Đầy Thần linh Thiên Chúa và nhờ ơn soi sáng, ông đã nhận ra Đấng Messia nơi Hài nhi do người Mẹ khiêm hạ này bồng trên tay.
Lời đầu tiên của ông là lời thân thưa với Thiên Chúa. ‘Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi’. Thiên Chúa là Chủ Tể, ai muốn phục vụ Ngài, là tôi tờ của Ngài. Đời sống của cụ già Simêon là một sự hiện hữu và là một công việc phục vụ Thiên Chúa, được kể như một cuộc phục dịch, nhưng bây giờ đã tới lúc nghỉ ngơi sau chuỗi ngày dài lao động. Sự chết là một cuộc nghỉ việc, một sự giải phóng trong an bình và về với an bình.
Hy vọng và ơn cứu độ là phần thưởng lúc trời chiều ngả bóng, đã nâng đỡ ông suốt thời gian thi hành nhiệm vụ khó khăn. Đấng Cứu độ đã đến, công việc đã có được ý nghĩa và đời sống dấn thân trên con đường cứu độ lời kinh ‘muôn lạy Chúa’ (Nunc dimittis) là lời kinh tối của Giáo Hội.
‘Mắt con đã nhìn thấy ơn cứu độ’. Cụ Simêon, con người ưu tư, suy nghĩ, hẳn phải đau khổ vì những cảnh vô đạo chung quanh. Chính đôi mắt này đã từng chứng kiến những cảnh tội lỗi và phản giáo, nay thấy Đấng mang lại ơn cứu độ và sự thánh thiện. Đức Kitô là thày thuốc sẽ chữa trị tất cả và là Đấng Thánh sẽ thánh hoá tất cả.
‘Chúa dọn ra trước mặt người trần’. Những chướng ngại hạn hẹp của Israel đã bị phá đổ, chiều kích của Giáo Hội phổ quát tỏ hiện. Israel ra đi mở rộng chân trời của Simêon và làm cho người ta nghĩ đến những khuôn khổ mới mẻ của tinh thần và con tim.
‘Ánh sáng rạng soi dân ngoại’. Những lời tiên tri của Isaia (đoạn 42 và 29) đã được nhắc lại ở đây. Dân ngoại không còn là người bị khinh khi, xua đuổi; không còn bị cái nhìn trịch thượng của những người đã được chọn ném xuống. Vì ánh sáng của Đức Kitô sẽ đâm thấu đêm đen, đuổi đi tất cả những bóng tối và đem đến một ngày mới không có chiều tà.
‘Còn Israel dân Chúa được vinh quang’. Nhờ Chúa Giêsu, cái cây của dân này sẽ triển nở sinh hoa kết quả. Israel xấu sẽ trở nên đối tượng của vấp phạm và tên nó sẽ bị nhiều người nhạo báng và ghét bỏ. Còn Israel chân thật sẽ là cánh đồng nơi các hoa mầu quý giá mọc lên, sẽ là núi đá vọt ra những dòng suối, sẽ là nền trời nơi mặt trời toả sáng; nên các tín hữu sẽ nhắc đến tên nó với lòng kính trọng và biết ơn.
Theo lời của Simêon, Israel đặt sự cao cả đã nhận được từ nơi Chúa, dưới chân Chúa nhập thể. Bài tang ca của Israel là một bài thánh thi cho Đức Kitô; Israel đã tàn lụi trong những tia sáng của luồng ánh sáng rạng rỡ hơn; Israel chết đi để được đưa vào một đời sống mới nhờ Đức Giêsu Đấng Thiên Sai.
Lời thứ hai của Simêon là lời nói với Đức Maria: ‘Hài nhi con bà sẽ được đặt lên để nhiều người trong Israel phải sụp đổ hay chỗi dậy và làm dấu gợi lên chống đối’. Kitô giáo không cưỡng chế và cũng chẳng dùng sức mạnh để bắt buộc ai, trái lại chỉ là lời mời mọc và kêu gọi. Con người phải quyết định. Họ có thể nói nhận hay không. Nhờ lời ‘nhận’ họ sẽ đứng thẳng lên như người bị tê liệt được chữa khỏi, vì họ sẽ bước đi trên con đường của Thiên Chúa. Với tiếng ‘không’ họ tự mình chỗi dậy và tin rằng mình đã hoàn hảo: sự suy sụp của họ đã đến. Tất sẽ kết thúc bằng đổ vỡ và đồi bại.
Giữ một chỗ đối với Đức Kitô là quyết định số phận con người và nhân loại trước nhan Thiên Chúa. Đức Kitô đưa ra hai nẻo đường lớn dẫn tới cứu độ và sa ngã, dòng nước đôi ngả, sự nhận thức giữa chân và giả. Đối với Mẹ Ngài, việc biết được Đức Kitô, Đức Kitô đích thực, sẽ gặp chống đối và phản kháng hẳn phải là nỗi đau đớn ghê gớm trong đời Mẹ: ‘Một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tim chị’. Vì tiếng ‘nhận’ và ‘không’ sẽ làm lộ nhiều tâm hồn trong Israel. Cái bị che dấu sẽ đưa ra ánh sáng. Cứng lòng, ý tưởng bất chính, ích kỷ cá nhân, kiêu ngạo và ghen tương… tất cả những gì là xấu xa, kẻ thù của Thiên Chúa, đều tỏ lộ ra. Tất cả những gì là bỉ ổi, suy đồi và hôi thối đều bị thấy rõ. Nhìn thấy các tư tưởng con người hệ ở chỗ vạch trần những giả dối và mở toang những nấm mồ quét vôi trắng. Nhưng trên hết phải là sự dửng dưng không tiếp nhận tình yêu Nhập thể, đó mới chính là mũi gươm đâm sâu vào trái tim người mẹ giầu tình thương này. Như vậy, ngay từ đầu đời Chúa Giêsu, người ta đã nhìn thấy ‘ Bà mẹ đau khổ’ là chính Người đứng dưới chân thánh giá, vào những giây phút cuối cùng với con bị đâm thấu tim, hoàn tất lễ hiến tế mạnh mẽ hơn lòng ghét ghen của nhân loại.
Khi Tin mừng nói rằng, ‘Cha và Mẹ Ngài ngạc nhiên về những gì nói về Ngài’ đã chứng tỏ cho ta thấy chính các vị cũng phải lần bước trong ánh sáng đức tin, đang khi luôn nhận thức và xác quyết những chân lý mới.
Hợp với ông già Simêon, có bà già khả kính Anna, đại diện cho cả dân tộc, nam cũng như nữ, ca tụng Thiên Chúa và mang tới một sứ điệp ‘cho những người đang trông đợi phúc cứu chuộc Israel’.
Người ta không thấy nhắc gì tới cái chết của ông già bà cả này. Các cụ đã làm tròn sứ mạng của mình và đã sang thế giới bên kia với tâm hồn bình an và vui sướng trong cũng một cảm nghĩ rằng Israel chân chính mới mẻ là người luôn cởi mở trong Đấng Messia. [Mục Lục]
“Theo luật Môsê… cha mẹ dâng con cho Chúa”.
Một ông vua muốn thử tài phán đoán của các con, ông đưa ra hai viên ngọc quý, một viên thật, một viên giả, viên ngọc thật ông gói trong giấy báo cũ, còn viên giả ông để trong một hộp thật đẹp. Ông gọi người con đầu tới và bảo anh chọn lấy một viên. Anh bỏ qua gói giấy xấu, lựa lấy viên trong hộp đẹp. Thế là anh đã chọn viên ngọc giả. Đến lượt người con thứ, vua cha cũng bảo như thế, anh này vốn là đứa con hiếu thảo, anh nói: “Thưa cha, con xin cha lựa giùm con”. Dĩ nhiên vua cha lựa cho anh viên ngọc thật.
Chúa Cứu Thế đến trần gian cũng ví được như một ngọc quý nhưng được che phủ trong dáng vẻ bình dị, tầm thường, ít người nhận ra. Muốn nhận ra Chúa Cứu Thế phải có ơn đặc biệt, phải chuẩn bị tâm hồn xứng hợp.
Chúa Giáng Sinh chẳng những như một em bé bình thường, mà còn kém các em bé bình thường nữa. Chúa cũng tuân giữ luật lệ như mọi người, dù em bé Giêsu là Thiên Chúa, dù Đức Maria vô cùng tinh sạch, Mẹ cũng bồng Chúa lên đền thờ làm nghi thức thanh tẩy và dâng lễ vật chuộc Chúa về. Một cặp chim, đó là lễ vật của nhà nghèo. Gia đình Chúa lên đền thờ như một gia đình nghèo khó thi hành luật định. Chúa như là viên ngọc dấu kín, thế nhưng đã có ông Simêon và bà Anna nhận ra Người.
Trong đền thánh có bao nhiêu người giỏi giang, thông thái như các tư tế, các luật sĩ. Họ am tường Kinh Thánh, hiểu rõ các lời ngôn sứ tiên báo về Chúa Cứu Thế, nhưng họ không nhận ra Chúa, vì Chúa quá nghèo khó bình dị. Trong khi ông chỉ là một ông lão nghèo. Bà Anna chỉ là một quả phụ, bần cùng yếu đuối, không quyền hành trong xã hội. Nhưng họ vốn là những người con hiếu thảo của Thiên Chúa: khiêm tốn, đạo hạnh, biết thờ Chúa với tất cả tấm lòng tin yêu phó thác vào quyền năng và tình thương của Thiên Chúa. Họ giống như người con thứ của vua trong câu chuyện kể trên. Họ đã được Chúa Thánh Thần soi sáng để nhận ra Chúa Cứu Thế qua dáng vẻ tầm thường của một hài nhi. Họ đã được đón nhận Chúa Cứu Thế, như những người nghèo hèn bé nhỏ được Chúa chúc phúc vậy.
Simêon và Anna nghèo khó đã hân hạnh được bồng ẵm Chúa Cứu Thế, được thay mặt nhân loại nói lời đầu tiên tung hô Chúa đến.
Simêon cũng đã tiên báo Chúa Cứu Thế sẽ là một báu vật được giấu kín giữa lòng thế nhân. Vì vậy có người nhận ra nhưng đa số vẫn từ chối Ngài, thậm chí còn chống đối Ngài. Do đó Ngài sẽ là duyên cớ cho nhiều người vấp ngã. Và thái độ họ sẽ như một lưỡi gươm đâm thấu trái tim Đức Maria, sẽ làm Mẹ tan nát cõi lòng như ta thấy về sau.
Chu toàn bổn phận theo luật định xong, gia đình Chúa Giêsu trở về Nagiarét. Ở đó, Chúa Giêsu lớn khôn, học hành, tập nghề thợ mộc như các bạn thiếu nhi. Cuộc sống Chúa vạch rõ tầm quan trọng của gia đình, cái nôi cần thiết cho mọi người. Chúa sống ở trần gian 33 năm, thì đã sống 30 năm bình thường trong gia đình nghèo khó.
Xin Chúa giúp chúng con theo gương Chúa sống trung hiếu với Cha trên trời, thảo kính ông bà cha mẹ ở trần gian và sống tình huynh đệ với mọi người. Biết vâng giữ luật Chúa, luật Hội Thánh và các luật lệ chính đáng trong xã hội. [Mục Lục]
Đề tài “gia đình” là một đề tài xưa như trái đất, mà cũng rất thời sự như “tình yêu”, “tình yêu và tuổi trẻ”, “dự bị hôn nhân”, “thăng tiến hôn nhân”, vân vân và vân vân…
Ai cũng biết rằng tất cả các tạo vật – giống nào theo giống đó – có một mối tương quan rất chặt chẽ, một sự hỗ tương tác dụng để “sinh sôi nẩy nở” (Kn 1,22) và lan tràn khắp mặt đất, bầu trời lẫn biển khơi. Riêng loài người thì được Đấng Tạo Hóa ban cho quyền năng “sinh sôi nẩy nở và nên đầy dẫy trên mặt đất, và làm bá chủ muôn loài” (Kn 1,28-31). Đó là “tính xã hội” của muôn loài nói chung, của loài người nói riêng = xã hội loài người thành hình.
Quả thật “không ai là một hòn đảo” (Thomas Merton), mặc dầu dưới một góc độ nào đó, “mỗi người là một hòn đảo” (Carl Rogers). Tựu trung, có lẽ ngoại trừ ông Adong và bà Eva [và cả hài nhi Giêsu? – ai muốn kiểm chứng thì hỏi hài nhi Giêsu đi!] còn hết thảy chúng ta, ai cũng có lổ rốn. Phải chăng lổ rốn là dấu chứng rõ nét nhất của mối tương quan giữa các tạo vật, giống nào theo giống đó, đặc biệt là giống người? = nhân tố của xã hội loài người: gia đình.
Trong chiều hướng đó, Ngôi Lời mặc xác phàm đến ở-với-chúng-ta trong một gia đình – một gia đình rất đặc biệt, có thể nói rằng gia đình duy nhất ở trần gian biểu hiện nếp sống hoàn toàn phù hợp với ý định của Đấng Tạo Hóa khi tạo dựng loài người, và là mẫu mực cho tất cả mọi gia đình của nhân loại trong tiến trình đón nhận ơn cứu độ, ơn canh tân đổi mới để đạt đến sự viên mãn của “Bình An dưới thế cho người Chúa thương”.
Chúng ta đã suy niệm và hân hoan ca hát: “Vinh Danh Thiên Chúa trên trời – Bình An dưới thế cho người Chúa thương”. Và chúng ta cũng biết rằng Đêm Giáng Sinh chỉ là khởi điểm của chương trình “tạo dựng mới” mà Thiên Chúa đã hứa ban cho loài người ngay sau khi tổ tông phạm tội.
Tiến trình canh tân đổi mới này phải có “hợp đồng hai chiều” giữa Thiên Chúa và loài người, như thánh Augustinô đã nói: “Thiên Chúa tạo dựng chúng ta mà không hỏi ý kiến chúng ta, nhưng Thiên Chúa sẽ không cứu độ chúng ta nếu không có sự đồng tình của chúng ta”. – Ai không muốn kiểu “hợp đồng hai chiều” này thì “thương lượng lại” với Đấng Tạo Hóa đi!!!
Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa đầy quyền năng, là Cha rất nhân từ hằng yêu thương hết mọi người (đọc lại Matthêu, 5-7) – Người không để chúng ta thiệt thòi trong “hợp đồng hai chiều” này đâu! Trái lại, như một nhà giáo dục tuyệt vời, Người còn mách lối chỉ đường cho chúng ta, không chỉ bằng Lời giảng dạy, mà nhất là bằng gương mẫu nếp sống cụ thể của chính Ngôi Lời ở-với-chúng-ta trong một gia đình bằng xương bằng thịt như chúng ta: gia đình Giuse-Maria-Giêsu.
Trước khi vào nếp sống gia đình, cô nàng thùy mị Maria đã phải đương đầu với một cuộc thương lượng gay go: hợp đồng với Thiên Chúa để bắt đầu thực hiện chương trình canh tân đổi mới tạo vật bất chấp mọi dư luận thế gian trần tục? [chưa cưới mà mang thai!]
Trước khi vào nếp sống gia đình, anh chàng Giuse đã phải ký kết hợp đồng với Thiên Chúa, một hợp đồng mà xét theo con mắt trần tục, phần thua thiệt chua cay đau khổ thì Giuse hoàn toàn lãnh đủ!
Vừa bước vào “nếp sống gia đình” (nếp sống gia đình trong dấu ngoặc kép), cả hai Giuse và Maria đều vỡ mộng: lời hứa hẹn của thiên sứ, nào là “Người sẽ làm vua”, nào là “Người sẽ cứu dân độ thế”… hóa ra là lời hứa cuội. Tìm chỗ trú ẩn tầm thường để Maria sinh ra “vua cả trời đất” mà cũng chẳng ai thèm cho!
Ngày “vua cả trời đất” sinh ra, họa chăng có vài mục tử nghèo hèn đến viếng thăm. Rồi nghe đâu có ba (3) nhà hiền sĩ từ phương Đông tò mò đến như thể để kiểm chứng sự khám phá “ngôi sao lạ” vừa xuất hiện trên bầu trời.
“Hoàng Nhi” vừa thôi nôi mã đã có người tìm giết cho bằng được. Giuse lại phải đương đầu với hợp đồng ông đã ký kết với Thiên Chúa: dẫn “hiền thê” và “Con đầu lòng” đi trốn sang Ai-Cập, nơi mà hơn 1000 năm trước, các tổ phụ của Giuse đã bị bắt làm nô lệ…
Thời đó chắc chưa có chính sách tị nạn, nghĩa là chưa có “green card” hoặc “thi nhập quốc tịch”, Giuse lại phải tiếp tục chấp hành đúng theo điều cam kết trong hợp đồng với Thiên Chúa: đem “hiền thê” và “Hoàng Nhi” về quê cũ.
Ôi! con đường Thiên Chúa dẫn dắt gia đình Giuse-Maria-Giêsu đến sự “Bình An dưới thế cho người Chúa thương” thật kỳ lạ, vượt xa mọi tư tưởng và cảm nhận của người trần thế!
Đấng Tạo Hóa “khôn” lắm! Người biết thế nào chúng ta cũng so đo phàn nàn về “hợp đồng hai chiều” mà phần thua thiệt – dưới con mắt trần tục của chúng ta – bảo đảm chúng ta phải lãnh đủ, nên gần 500 năm trước khi Ngôi Lời mặc xác phàm đến ở-với-chúng-ta, Người đã dùng miệng ngôn sứ Isaia báo trước: “Quả thế, ý nghĩ của Ta không phải là ý nghĩ của các ngươi, và đường lối của Ta không phải là đường lối của các ngươi… Vì trời cao hơn đất (bao nhiêu), cũng vậy, đường lối của Ta vượt hơn đường lối của các ngươi, và ý nghĩ của Ta vượt hơn ý nghĩ của các ngươi.” (Is. 55:8-9)
Trong suốt 30 năm Ngôi Lời mặc xác phàm ở-với-chúng-ta, gia đình Giuse-Maria-Giêsu hầu như im hơi lặng tiếng – chỉ một lần lúc Giêsu lên 12 tuổi (tuổi “có trí khôn” theo quan niệm thời bấy giờ?), Thiên Chúa hé mở cho chúng ta thấy thế nào là nếp sống gia đình gương mẫu, một nếp sống trông rất bình thường nhưng vượt trên mọi sự bình thường:
+ Giuse thì luôn luôn LẮNG NGHE và THI HÀNH tiếng nói của lương tri, của Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn trong mọi biến cố của cuộc đời;
+ Maria thì luôn luôn “suy niệm trong lòng”, nhận ra Thánh Ý Thiên Chúa qua mọi biến cố và XIN VÂNG;
+ Giêsu thì luôn luôn “ở nơi nhà Cha” (Luca 2:49), tùng phục cha mẹ, và “lớn lên [bình thường như mọi người] càng thêm tuổi, càng thêm khôn ngoan và ân sủng trước mặt Thiên Chúa và trước mặt người ta” (Luca 2:51).
Quả là một cuộc thách đố Đấng Tạo Hóa “trêu” con người!
Nhưng “vui mừng và hy vọng” thay! Chương trình tái tạo muôn loài nhờ Ngôi Lời mặc xác phàm ở-với-chúng-ta đã thành tựu = gia đình Giuse-Maria-Giêsu làm chứng điều đó, và trải qua gần 2000 năm nay, biết bao nhiêu gia đình – cộng đoàn tu sĩ nam nữ cũng là những gia đình trong ý nghĩa trọn vẹn của gia đình – đã noi theo gương Thánh Gia làm chứng điều đó.
Phần chúng ta hôm nay, bây giờ, gia đình chúng ta có muốn theo gương các vị tiền nhân, ký kết “hợp đồng hai chiều” với Thiên Chúa để mỗi một chúng ta: cha mẹ, con cái, anh chị em chúng ta đạt đến sự viên mãn của “Bình An dưới thế cho người Chúa thương” không? – Nhờ ơn Chúa hợp với tâm tình LẮNG NGHE và THI HÀNH tiếng nói của Thần Khí Thiên Chúa của chúng ta, chắc chắn chúng ta sẽ thu lợi trong “hợp đồng” này. [Mục Lục]
ĐỂ CỨU CÁC GIA ĐÌNH, CHÚA CỨU THẾ ĐÃ CHỌN SINH RA TRONG GIA ĐÌNH
Hôm nay chúng ta cùng nhau cử hành lễ kính Thánh Gia Thất, trong bối cảnh Thượng Hội Đồng Giám Mục về gia đình vừa được cử hành là chặng đầu tiên của một lộ trình sẽ kết thúc vào tháng 10 năm tới với một Hội nghị về đề tài “Ơn gọi và sứ mệnh của gia đình trong Giáo Hội và trong thế giới”. Giáo hội Việt Nam lấy năm Tân Phúc-Âm-Hoá gia đình làm tiền đề để bước vào năm Tân Phúc-Âm-Hoá giáo xứ. Đẹp biết bao khi nhìn vào hang đá chúng ta thấy Chúa Cứu Thế đến trần gian, đã chọn sinh ra trong một gia đình nhân loại, mà chính Người đã thành lập, để cứu các gia đình. Mừng Chúa Cứu Thế đến cũng là mừng Thánh Gia Thất, nơi Ngài sinh sống.
Các bài đọc hôm nay từ Cựu Ước đến Tân Ước thật là đẹp, đẹp về cách hành văn, đẹp về nội dung, nhất là đẹp tuyệt vời về cách sống trong gia đình. Nếu bài đọc I trích sách Đức Huấn Ca dạy con cái phải thảo cha kính mẹ: “Hỡi kẻ làm con, hãy gánh lấy tuổi già cha ngươi, chớ làm phiền lòng người khi người còn sống”, cùng với những phần phúc cho những người con biết tôn kinh mẹ cha là: “Ai yêu mến cha mình, thì đền bù tội lỗi; ai thảo kính mẹ mình, thì như người thu được một kho tàng”, nhất là được trường thọ: “Ai thảo kính cha mình, sẽ được sống lâu dài. ” Thì bài đọc II, Thánh Phaolô khuyên những người làm vợ làm chồng: “Hỡi các bà vợ, hãy phục tùng chồng trong Chúa cho phải phép. Hỡi những người chồng, hãy yêu thương vợ mình, đừng đay nghiến nó”. Ngài cũng khuyên cha mẹ phải tôn trọng, yêu mến con cái: “Hỡi những người cha, đừng nổi cơn phẫn nộ với con cái, kẻo chúng nên nhát đảm sợ sệt” (Cl 3, 21). Bài Tin Mừng nêu bật vai trò quan trọng của Thánh Giuse, mẫu gương cho bậc làm cha, làm chủ, làm chồng trong các gia đình.
Thảo kính cha mẹ
Để giữ cho gia đình hạnh phúc, Thiên Chúa đã ban cho Giới răn thứ Bốn trong Mười Điều răn: “Thứ Bốn thảo kính cha mẹ”,
Có nhiều kẻ làm con đã hỏi: Vậy, tước phẩm làm cha làm mẹ là thế nào để con cái phải tôn kính. Quyền bính cha mẹ tự đâu mà có?
Để có một cuộc sống đích thực, nhân loại phải có quyền bính, nếu không xã hội không thể có được, và phải đi tới nguyên tắc căn bản: không có Thiên Chúa, không có quyền bính. Vì thế, kẻ làm con, người làm bề dưới phải vâng lời cha mẹ, tùng phục người trên là vì thấy trong trật tự ổn định là quyền lực, là thế giá của Thiên Chúa. Đứa trẻ thấy quyền lực Thiên Chúa nơi cha mẹ, học trò ở nơi thầy cô, người dân thấy ở nhà cầm quyền. Phải, quyện lực của cha mẹ là do Thiên Chúa mà ra.
Chúa dạy: “Hãy tôn kính cha ngươi và mẹ ngươi “. Và Thánh Phaolô khuyên: “Hỡi những người con, hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự ” (Cl 3, 20). Giới răn không nói yêu mến nhưng là tôn kính. Người ta yêu anh chị em, yêu tha nhân, song đối với cha mẹ, phải tôn kính. Đó là điều mà phận làm con, kẻ bề dưới ngày nay không muốn biết nữa. Tôn kính có nghĩa là khi cha mẹ nói, dạy điều gì, con cái phải im lặng, lập tức thi hành, dù là ước muốn nhỏ nhất: “Vì đó là đẹp lòng Chúa” (Cl 3, 20). “Hãy tôn kính cha con và mẹ con” ; “Đứa con nào mà đánh đập cha mẹ mình thì phải chết” ( Xh 20;21)
Phu phụ tương kính như tân
Thiên Chúa dựng nên con người có nam có nữ giống hình ảnh Chúa, và cho hai người kết hợp với nhau nên một bằng mối giây loài người không thể tháo cới, để mỗi người phát triển nảy nở trong hạnh phúc, và sinh con cái nối giòng dõi loài người và Hội Thánh.
Khi nói thế, người chồng có thể đòi người vợ phụng tùng chồng một cách mù quáng không? Không, người này phải phục tùng người kia cho phải đạo, cả hai đều phải phục tùng Đức Kitô như toàn thể Giáo hội.
Người nam có biết khi được làm đầu thì phải làm gì không? Thánh Phaolô kêu gọi: ” Hỡi những người chồng, hãy yêu thương vợ mình, đừng đay nghiến nó” (Cl 3, 20).
Người ta thường nói: chồng là đầu gia đình, vợ là trái tim gia đình. Nói đúng hơn: chồng là cả hai, vừa là đầu, vừa là trái tim. Người ta cũng ví người chồng giữ vai trò như người lái thuyền, phải đưa thuyền đi đúng hướng, là bảo vệ sự an toàn cho mọi người trong thuyền, phục vụ mọi người với tình yêu thương, như yêu thương chính mình, để cùng nhau hướng tới hạnh phúc.
Cha mẹ tôn trọng và yêu mến con cái
Giới răn thứ Bốn này có hai chiều: con cái và cha mẹ, cha mẹ và con cái. Nếu con cái phải tôn kính cha mẹ, thì cha mẹ cũng phải tôn trọng, yêu mến con cái: “Hỡi những người cha, đừng nổi cơn phẫn nộ với con cái”. Cha mẹ quí mến con cái, vì con cái trước hết không thuộc về các cha mẹ mà thuộc về Thiên Chúa. Con cái là kho tàng Thiên Chúa trao cho, một ngày kia Chúa sẽ đòi cha mẹ phải trả lẽ. Vậy, cha mẹ phải yêu quí, tôn trọng sự sống con cái, ngày từ khi còn trong lòng mẹ, chớ làm phương hại đến chúng. Tôn trọng con cái từ lúc còn thơ đến tuổi trưởng thành…
Chăm lo cho con cái về mặt tinh thần cũng như thể xác, nhất là linh hồn, vì trước hết chúng thuộc về Thiên Chúa. Cha mẹ không thể lên thiên đàng một mình, phải có con cái đi theo. Con cái không lên thiên đàng được, cha mẹ cũng không lên được. Chúng ta thấy Mẹ Maria, Thánh Giuse, và Chúa Giêsu, cả Ba Đấng đều lên Đền thờ dự lễ theo luật.
Khi có chuyện chẳng lành trong gia đình, lời thánh Phaolô sau đây như là khuôn vàng thước ngọc về lẽ sống và cách đối nhân xử thế của các thành viên trong gia đình: “Anh em thân mến, như những người được chọn của Thiên Chúa, những người thánh thiện và được yêu thương, anh em hãy mặc lấy những tâm tình từ bi, nhân hậu, khiêm cung, ôn hoà, nhẫn nại, chịu đựng lẫn nhau, và hãy tha thứ cho nhau nếu người này có chuyện phải oán trách người kia. Như Chúa đã tha thứ cho anh em, anh em cũng hãy tha thứ cho nhau. Và trên hết mọi sự, anh em hãy có đức yêu thương, đó là dây ràng buộc điều toàn thiện”.
Noi gương Mẹ Maria và Cha thánh Giuse, mỗi gia đình kitô giáo hãy đón rước Chúa Giêsu, lắng nghe Người, nói chuyện với Người, gìn giữ Người, che chở Người, lớn lên với Người, và như thế chúng ta mới phúc âm hóa gia đình, canh tân giáo xứ và cải tiến thế giới được. Hãy dành cho Chúa một chỗ trong trái tim và ngày sống của chúng ta.
Lạy Thánh Gia Chúa Giêsu, Đức Maria và thánh Giuse, xin chở che gìn giữ gia đình nhân loại chúng con. Amen. [Mục Lục]
Câu hỏi gợi ý:
- Qua bài Tin Mừng, bạn thấy Giuse có những nỗi khó khăn nào? Và ông đã có thái độ nào khi giải quyết những khó khăn ấy?
- Hạnh phúc gia đình tùy thuộc vào ai nhiều nhất? Tại sao?
- Để gia đình được hạnh phúc, mọi người trong gia đình cần có tinh thần nào?
Suy tư gợi ý:
- Giuse, người chủ gia đình gương mẫu
Bài Tin Mừng hôm nay chủ yếu nói về thánh Giuse với tư cách chủ của gia đình Nagiarét. Ngài đã phải hết sức cực nhọc vất vả vì gia đình của mình, nhất là vì con trẻ Giêsu, kể từ khi thấy Đức Maria mang thai, một cái thai không phải là của mình, nhưng trước mắt mọi người thì lại chính thức là của mình. Thử đặt mình vào địa vị Giuse, ta sẽ thấy vai trò của ngài không phải dễ dàng.
Đối với con trẻ Giêsu, cho đến lúc lìa đời, thánh nhân luôn luôn phải dùng con mắt đức tin, tin vào lời sứ thần hiện ra trong giấc mơ, để khỏi nghĩ rằng mình đang phải nuôi đứa con của người đàn ông khác. Cuộc đời đâu phải lúc nào cũng phẳng lặng để Giuse có thể yên ổn với niềm tin ấy. «Cũng có lúc mưa dồn sóng vỗ», đức tin của Giuse chắc chắn bị thử thách nhiều phen, nhất là những lúc phải vượt thắng những khó khăn vượt quá sức mình như tình huống của bài Tin Mừng hôm nay.
Từ khi nhận Maria về nhà mình đến giờ, khó khăn cứ dồn dập xảy tới. Chưa yên thân với Maria tại nhà mình, thì có lệnh phải đưa Maria – đang mang thai đã đến thời sinh nở – từ miền Bắc vào miền Nam, từ Nagiarét xứ Galilê đến Bê-lem xứ Giuđê theo lệnh kiểm tra dân số của Hoàng Đế Augústô (x. Lc 2,1-6). Cuộc hành trình mà theo đường chim bay đã dài tới 120km, và đương nhiên phải đi bằng một phương tiện rất thô sơ của những người nghèo thời đó, có thể chỉ là một con ngựa hay con la. Người nghèo đi tới đâu cũng gặp khó khăn, chẳng mấy ai giúp đỡ. Và Maria đã bị buộc phải sinh hạ con trẻ Giêsu – mà Giuse tin là đấng Thiên Sai – trong một chuồng bò lừa. Là chủ gia đình, chắc chắn Giuse không tránh khỏi đau lòng và nhục nhã trước sự nghèo nàn và bất lực của mình! Nhưng nào đã hết! Con trẻ mới sinh chưa được bao lâu, đang chuẩn bị đưa hai mẹ con hồi hương, thì lại có lệnh của thiên thần – cũng lại trong giấc mơ – buộc phải đưa cả hai mẹ con trốn sang Ai-Cập. Chỉ thẳng đường chim bay từ Bê-lem tới biên giới Ai Cập thôi đã phải là 100km. Hành trình lần này chắc chắn vất vả hơn lần trước, vì có thêm con trẻ Giêsu hết sức yếu đuối, dễ nhiễm bệnh. Ở nơi đất khách quê người, Giuse phải tìm cho ra chỗ ở, việc làm tạm thời để nuôi sống cả gia đình, chắc hẳn điều ấy không luôn luôn dễ dàng. Rồi cuối cùng lại phải đưa cả gia đình về Nagiarét. Tại đây Giuse phải bao bọc, che chở và nuôi sống gia đình, đồng thời giáo dục con trẻ Giêsu nên người. Đối với Đức Giêsu, câu «công Cha như núi Thái Sơn» chắc chắn cũng rất đúng khi áp dụng cho cha nuôi của mình.
Tất cả những khó nhọc vất vả ấy đòi hỏi Giuse phải có rất nhiều tình yêu và nhiều đức tính mới có thể vượt qua một cách tốt đẹp. Nếu Giuse và Maria sống đời vợ chồng bình thường, thì những khó nhọc của Giuse sẽ được bù đắp bởi những giây phút hạnh phúc thân mật bên Maria. Nhưng theo niềm tin Công giáo, Giuse bảo vệ cho Maria sống đồng trinh trọn đời, nên tình yêu đầy tính thiên thần và hết sức cao thượng của Giuse đối với Maria phải hết sức lớn lao. Ngài thật là một người đàn ông cao cả, và là một người chủ gia đình hết sức gương mẫu. Thiết tưởng bất kỳ người chủ gia đình nào bắt chước Giuse cũng sẽ làm cho gia đình mình yên vui hạnh phúc.
- Hạnh phúc gia đình tùy thuộc người chồng rất nhiều
Hạnh phúc gia đình có hay không, và đến mức nào, tùy thuộc vào tất cả mọi thành viên trong gia đình, nhất là vào cách đối xử của hai vợ chồng đối với nhau. Muốn gia đình hạnh phúc, mọi thành viên phải thực hiện những điều Thánh Phaolô đề nghị trong bài đọc 2: «Người làm vợ hãy phục tùng chồng, như thế mới xứng đáng là người thuộc về Chúa. Người làm chồng hãy yêu thương chứ đừng cay nghiệt với vợ. Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự, vì đó là điều đẹp lòng Chúa. Những bậc làm cha mẹ đừng làm cho con cái bực tức, kẻo chúng ngã lòng».
Nhưng nếu so sánh giữa hai vợ chồng, thì theo sự thường, nghĩa là trong đa số các trường hợp, hạnh phúc và sự êm ấm trong gia đình tùy thuộc vào người chồng nhiều hơn. Câu nói trên của thánh Phao-lô hàm ẩn những điều kiện trong đó. Muốn vợ phục tùng chồng, thì người trước đó người chồng cần phải tỏ ra yêu thương vợ một cách cụ thể, qua việc đối xử độ lượng, không cay nghiệt với vợ, biết thông cảm, hy sinh, thường xuyên giúp đỡ vợ trong mọi việc, nỗ lực bao bọc che chở vợ mình trong mọi hoàn cảnh. Người vợ có cảm thấy được chồng yêu thương, có cảm phục chồng vì tính quảng đại, cao thượng, bỏ qua mọi lầm lỗi nhỏ nhặt, thì mới dễ dàng phục tùng chồng. Nói chung, tâm lý của mọi người là chỉ tự nguyện phục tùng những ai mình nể phục và yêu mến mà thôi. Người vợ không thoát ra ngoài tâm lý chung ấy. Người chồng không nên lấy quyền làm chồng, hoặc dùng bạo lực hay áp lực kinh tế để ép buộc vợ phải phục tùng mình. Làm như thế thì có khác gì mình đang thực hiện một chế độ độc tài nho nhỏ trong gia đình. Người vợ cảm thấy mình bị áp bức một cách bất công, tất nhiên – như một định luật – là sẽ có ngày nổi loạn, nhất là khi người chồng trở nên yếu thế, không còn khả năng về kinh tế hay thể chất nữa. Lúc đó người chồng không thể chỉ biết trách vợ, mà trước tiên hãy nhận ra lầm lỗi của mình.
Ngược lại, muốn được chồng yêu thương, người vợ cũng cần phải tỏ ra mình là một người dễ thương, nghĩa là nói năng dịu dàng, ngọt ngào, biết chiều ý chồng, biết hy sinh tận tụy phục vụ gia đình, làm tròn mọi bổn phận của mình trong gia đình, nhất là biết tỏ ra nể phục chồng. Mình không dễ thương thì dù là chồng mình cũng chẳng thể thương mình được.
Tâm lý chung của mọi người đàn ông là dễ đem lòng yêu thương những phụ nữ tỏ ra nể phục mình, và tâm lý chung của mọi phụ nữ là dễ yêu thương những người mà mình nể phục. Nhưng làm sao người phụ nữ có thể yêu thương một người mà mình khinh thường vì thấy không có gì đáng nể phục? Và làm sao người đàn ông có thể yêu thương được người vợ không kính nể mình? Do đó, để gia đình hạnh phúc, yếu tố rất quan trọng là người chủ gia đình phải có một điều gì đấy, một đức tính nào đấy khiến người vợ cũng như con cái trong nhà nể phục. Có thể chỉ cần một đức tính nào đó thật nổi bật, không cần nhiều. Nhưng càng nhiều thì càng tốt! Nhưng đức tính không thể thiếu được là lòng độ lượng, bao dung, và sự hy sinh quả cảm.
Gia đình thánh gia rất dễ có hạnh phúc, một phần rất lớn là vì Giuse, người chủ gia đình, có rất nhiều đức tính đáng để Maria kính phục. Có thể nói bản lĩnh, cách hành xử cao thượng, và sự quảng đại trong yêu thương của người đàn ông là nền tảng và là yếu tố đầu tiên cần thiết cho hạnh phúc của cả gia đình. Thiếu nó, gia đình khó có hạnh phúc.
- Quên mình để yêu thương hữu hiệu, là bí quyết gây hạnh phúc gia đình
Một trong những trở ngại lớn nhất của hạnh phúc gia đình là cái tôi và ý riêng của mỗi thành viên. Nói chung, ai cũng coi cái tôi và ý riêng của mình là quan trọng, và tỏ ra rất bực mình khó chịu khi thấy cái tôi và ý muốn của mình bị coi thường, hoặc không được ai để ý tới. Ai cũng bị cái tôi và ý riêng của mình thu hút đến độ quên đi cái tôi và ý muốn của người khác vốn cũng thu hút hết tâm trí của họ. Ai cũng muốn cái tôi và ý kiến của mình được mọi người quan tâm chú ý, nhưng chẳng ai muốn quan tâm đến cái tôi và ý kiến của kẻ khác. Chính vì thế, chẳng ai được thỏa mãn, cuộc sống chung do đó chẳng hạnh phúc, thậm chí biến thành hỏa ngục. Muốn làm cho người khác hạnh phúc, nghĩa là làm cho họ được thỏa mãn vì cảm thấy cái tôi và ý kiến của họ được tôn trọng, thì chính tôi phải quên cái tôi và ý riêng của mình đi để đặt nặng cái tôi và ý kiến của họ lên. Như thế họ cảm thấy hạnh phúc khi ở bên cạnh tôi. Nếu người ấy cũng biết làm như thế đối với tôi, thì tôi cũng cảm thấy hạnh phúc, và thế là cả hai đều hạnh phúc. Nhưng cách tốt nhất và bảo đảm nhất để được hạnh phúc là tôi lấy hạnh phúc của người tôi thương làm hạnh phúc của mình. Như thế tôi sẽ hạnh phúc khi làm cho họ được hạnh phúc.
Hạnh phúc gia đình luôn luôn đòi hỏi phải có một ai đó trong nhà biết quên mình, biết quên cái tôi của mình đi, để quan trọng hóa cái tôi của người khác lên. Thái độ ấy như một cái ngòi khởi động, làm cho những người khác trong nhà cũng hành động như vậy, và nhờ đó, hạnh phúc gia đình mới bùng lên. Thái độ khởi động ấy phải được lập lại hàng ngày hàng giờ trong đời sống gia đình. Ai sẽ khởi sự thái độ quan trọng ấy nếu không phải là chính bạn, là người ý thức được bí quyết hạnh phúc đó, bất kể bạn là vợ hay chồng? Thật vô phúc cho gia đình nào không có ai tự nguyện làm cái ngòi khởi động tình yêu thương ấy hàng ngày trong cuộc sống!
Cầu nguyện
Lạy Cha, Cha đã chọn thánh Giuse là người đứng đầu gia đình Nagiarét với những đức tính rất cần thiết của một người làm chủ gia đình để gia đình ấy được hạnh phúc. Xin cho tất cả những người làm chủ trong các gia đình Ki-tô hữu biết noi gương bắt chước Ngài, biết coi nhẹ cái tôi của mình để thường xuyên quan tâm đến hạnh phúc của mọi thành viên khác trong gia đình. Xin cho những người làm vợ và làm mẹ noi gương Đức Maria biết luôn tỏ ra dễ thương, dịu dàng, và biết hy sinh ý riêng của mình cho hạnh phúc gia đình. Và xin cho mọi con cái trong gia đình Ki-tô hữu biết noi gương Đức Giêsu luôn kính trọng và vâng phục cha mẹ mình. Amen [Mục Lục]
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Chấp nhận làm người là chấp nhận thuộc về một gia đình. Ngôi Lời làm người chấp nhận có mẹ, có cha. Tuy thánh Giuse và Đức Maria không có tương giao vợ chồng, nhưng tình yêu chẳng bao giờ thiếu ở Nagiarét.
Chúng ta không biết nhiều về đời sống của Thánh Gia, nhưng chúng ta thấy Hai Đấng luôn ở bên nhau, đi chung với nhau trên những con đường, chia sẻ với nhau mọi nỗi buồn vui, trong thời gian Đức Giêsu còn thơ ấu.
Thánh Giuse đã đưa Đức Maria đi Bêlem. Đoạn đường cam go đối với người gần ngày sinh nở. Thánh Giuse cũng đã đưa Hài Nhi và Mẹ Ngài trốn sang Ai Cập, rồi lại đưa về làng cũ. Có lần cả hai phải vất vả mấy ngày tìm con trong âu lo và nước mắt.
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy cả gia đình thánh lên Đền Thờ lần đầu tiên. Một đôi vợ chồng nghèo với đứa con còn nhỏ.
Đây là một gia đình gắn bó với luật Chúa. Luật dạy người mẹ phải tẩy uế sau khi sinh con. Đức Maria vui lòng giữ luật ấy, dù Mẹ biết Đấng được Mẹ sinh ra là Đấng Thánh. Luật dạy phải chuộc lại đứa con trai đầu lòng vì nó thuộc quyền sở hữu của Thiên Chúa. Đức Giêsu chẳng những đã được chuộc lại, mà còn được cha mẹ Ngài tiến dâng cho Chúa.
Con Thiên Chúa đã lớn lên trong bầu khí gia đình. Ngài đã tập làm người. Mái nhà là trường học đầu tiên. Thầy cô đầu tiên là cha mẹ. Đức Giêsu lớn dần về mọi mặt thật hài hòa. Bé Giêsu, anh Giêsu, chú Giêsu, Ông Giêsu…
Ngài lớn lên trong dòng thời gian. Thời gian là ánh mặt trời làm cho trái chín. Nhờ lao động với Cha nuôi mà Ngài trở nên vững vàng và đủ sức khỏe để đảm nhận sứ vụ. Nhờ chuyên cần học tập mà Ngài thêm khôn ngoan. Dù Ngài là sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa, nhưng Ngài vẫn học hỏi nơi bạn bè, kinh sư, nơi kinh nghiệm rút ra từ cuộc sống.
Nhờ được dạy cầu nguyện mà Ngài có tình thân với Cha. Những lời kinh đầu tiên được bập bẹ trên gối mẹ. Nagiarét đã thành trường huấn luyện Đức Giêsu trở nên người biết sống cho người khác, và nên vị tông đồ tuyệt vời cho Cha và nhân loại.
Có bao bài học sống động ở dưới mái ấm này. Bài học yêu thương, cảm thông, tha thứ, bài học phục vụ, quên mình, khiêm hạ xin vâng…
Ước gì mọi gia đình Kitô hữu đều là một Thánh Gia, để mỗi người con đều trở nên một Giêsu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Xã hội suy sụp vì gia đình đổ vỡ. Đâu là những mối đe dọa mà gia đình hôm nay đang gặp phải? Một gia đình Kitô hữu dựa vào đâu để vượt qua những khó khăn đó?
Để có một gia đình hạnh phúc, cần có những người vợ, người chồng “đủ tiêu chuẩn”. Theo ý bạn, đâu là những tiêu chuẩn mà một bạn trẻ cần có trước khi lập gia đình?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, sau hơn 30 năm sống dưới mái nhà ở Nagiarét, Chúa đã thành một người chính chắn và trưởng thành, sẵn sàng lãnh nhận sứ mạng Cha giao.
Bầu khí yêu thương đã góp phần không nhỏ trong việc hình thành nhân cách của Chúa.
Chúa đã học nơi thánh Giuse sự lao động miệt mài, sự mau mắn thi hành Thánh ý Thiên Chúa, sự âm thầm chu toàn trách nhiệm đối với gia đình.
Chúa đã học nơi Mẹ Maria sự tế nhị và phục vụ, sự buông mình sống trong lòng tin phó thác và nhất là một đời sống cầu nguyện thâm trầm.
Xin nhìn đến gia đình chúng con, xin biến nó thành nơi sản sinh những con người tốt, biết yêu thương tha thứ, biết cầu nguyện và phục vụ.
Ước gì xã hội chúng con lành mạnh hơn, Giáo hội chúng con thánh thiện hơn, nhờ có những con người khỏe mạnh, khôn ngoan và tràn đầy ơn Chúa. [Mục Lục]
Hơn hết tất cả, lễ Giáng sinh thật sự là một lễ dành cho gia đình. Và trong khi tâm trí chúng ta còn đang hướng về Bêlem và Thánh gia, thì các bài đọc Phụng vụ hôm nay lại nhắc đến nhiều khía cạnh khác nhau trong đời sống gia đình. Nói đến Thánh Gia, có lẽ là nói đến một cái gì xa vời chăng, vì gia đình chúng ta đây có lẽ còn quá cách xa gia đình lý tưởng này.
Chúng ta đừng quên rằng Maria và Giuse, cũng như các bậc cha mẹ khác, đều phải đương đầu đối diện với biết bao vấn đề khó khăn. Bóng đen của thập giá đã phủ xuống chiếc nôi ở Bêlem, đã tràn vào trái tim Mẹ Maria khi nghe lời tiên tri lạnh lùng của Simêon, nào là Con trẻ sẽ nên cớ vấp phạm của nhiều người trong Israel, nào là trái tim của Mẹ sẽ bị lưỡi gươm sắc đâm thâu qua. Ngày từ đầu con trẻ mà Maria và Giuse hết lòng yêu thương trìu mến lại là một huyền nhiệm to lớn, và khi con trẻ trưởng thành dưới sự bao bọc của mình, Maria và Giuse chỉ biết hết lòng phó thác tín nhiệm vào Thiên Chúa mà thôi. Chúng ta cũng phải làm như thế thôi. Gia đình là một định chế lâu đời nhất của nhân loại, và gia đình đã tồn tại đến ngày nay là vì nó được xây dựng trên nền tảng tình yêu. Chúng ta có thể không có khả năng làm xoay chuyển thế giới nhưng ảnh hưởng của chúng ta vẫn có thể vươn ra bao bọc lấy gia đình tổ ấm chúng ta.
Cũng giống như bất cứ kế hoạch đáng giá nào khác, cuộc sống gia đình muốn thành công mỹ mãn phải cần đầu tư nhiều thời giờ và sức mạnh. Gia đình hạnh phúc không tự dưng mà đến. Tình yêu, hoà điệu, kính trọng lẫn nhau, vốn là những yếu tố cơ bản của một gia đình hạnh phúc, phải được chứng minh bằng hành động cụ thể. Câu Latinh “Lời nói bay qua, gương bày lôi kéo” (Verba volant, exampla trahunt). Gương sáng là những lời giảng dạy hùng hồn nhất. Những thái độ yêu thương ân cần chăm sóc, vốn rất cần trong những buổi ban đầu, cũng có nhiều ảnh hưởng sâu đậm và dài lâu. Trong cuộs sống sau này, con cái sẽ trở nên những gì mà chúng được nhào nặn, uốn nắn, được hấp thụ, và mội khi chúng học được cách cho đi và nhận lãnh, thì đồng thời chúng cũng sẽ phát triển được sự hiểu biết tha nhân một cách trưởng thành hơn.
Đây là cơ hội tốt cho những người mới trưởng thành suy nghĩ lại về tình yêu và lòng kính trọng mà họ cần biểu lộ với cha mẹ mình, vì đối xử tử tế với cha mẹ là một việc quí giá trước nhan Thiên Chúa. Buồn thay, về phương diện này, giới trẻ thường không sống phù hợp với tinh thần phúc âm cho lắm.
Cha mẹ ngày nay thường hay bị hoang mang bối rối không biết cái gì đang xẩy ra, khi thấy con cái đang trưởng thành lại hay diễn tả những giá trị cũng như niềm tin khác với thế hệ trước. Cũng cần phải tỏ lòng tôn kính đặc biệt với ông bà nội ngoại trong quãng đời về chiều, và đừng để các ngài kết thúc cuộc đời trong nỗi cô đơn dày vò. Hơn bất cứ gì khác, điều đáng nói nhất là cần sống bình an trong vòng tay êm ấm của gia đình. Đã đành một gia đình được chu cấp đầy đủ, và một mức sống tươm tất là điều quan trọng nhưng chúng ta cũng cần nhớ rằng nếu như gia đình không duy trì cầu nguyện hướng về cuộc sống thiêng liêng, thì mọi chuyện khác cũng nhất định sẽ trục trặc mà thôi.
Đời sống gia đình không bao giờ trôi chảy êm ả mãi, ngày nay còn có biết bao khó khăn phải nỗ lực phấn đấu hơn xưa nhiều lắm. Nhưng đó là những nguyên liệu chúng ta sử dụng để hình thành nên đời sống thánh thiện của chính mình. Nhân dịp Lễ Thánh Gia, chúng ta cầu xin Mẹ Maria và Thánh Cả Giuse giúp gia đình chúng ta biết sống đẹp lòng Chúa hầu đem lại một tinh thần mới cho đơn vị cơ bản nầy của xã hội loài người. [Mục Lục]
Giáo hội thiết lập Lễ Thánh gia để chỉ cho ta thấy cái tầm quan trọng của đời sống gia đình, và cái gương mẫu của gia đình thánh. Chính Chúa Giêsu đã chỉ cho ta thấy cái tầm quan trọng của đời sống gia đình qua cuộc đời của Người tại thế. Chúa chỉ dành có ba mươi năm – nhiều hơn 10 lần – sống trong trong bầu khí gia đình, có Mẹ có Cha, để thu thân luyện đức. Theo chương trình quan phòng của Thiên Chúa, trinh nữ Maria được chọn làm mẹ Đấng cứu thế. Còn thánh Giuse được chọn làm cha nuôi để săn sóc cho gia đình thánh. Chúa Giêsu bắt đầu sống trong gia đình theo nhân tính của Người như mỗi người để giúp ta dễ liên kết với Người.
Gia đình đời nay lớn hay nhỏ là đá tảng của đời sống quốc gia. Trong quá khứ, nhiều quốc gia đã muốn tiêu diệt đơn vị gia đình, nhưng thất bại. Sống và lớn lên không có gia đình, người ta có thể mất đi cái thăng bằng về đời sống tâm linh và tình cảm. Khi gia đình đổ vỡ, những căn tính về phái tính về gia đình của con cái sẽ bị thuyên giảm. Nói theo phương diện đạo đức thì gia đình là một đơn vị tôn giáo đầu tiên. Chính trong bầu khí an toàn và cái khung cảnh ấm cúng của gia đình mà những giá trị nhân bản, luân lý và đạo giáo được truyền đạt xuống cho con cháu và con cháu học được những việc làm đạo hạnh của ông bà cha mẹ.
Thiên Chúa biết rõ trước khi Người tạo dựng A-đam và Ê-va. Sách Sáng Thế Sử ghi lại: Thiên Chúa tác thành con người theo hình ảnh Thiên Chúa (St 1,26). Thiên Chúa hài lòng với công việc Người tạo dựng, chúc lành cho người nam và người nữ, và phán: Hãy sinh sản cho đầy mặt đất, và khắc phục đất đai (St 1,28). Thiên Chúa tạo dựng người nam và người nữ để làm thành gia đình, có cha có mẹ và con cái để yêu thương săn sóc lẫn nhau. Sợi dây ràng buộc gia đình lại với nhau là tình yêu. Chính tình yêu đã khiến Chúa Giêsu mặc lấy thân xác loài người và sinh ra giữa nhân loại. Chính tình yêu đã khiến trinh nữ Maria chấp nhận địa vị làm mẹ Đấng cứu thế. Chính tình yêu đã khiến thánh Giuse đưa Hài nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập (Mt 1,25).. Và cũng chính tình yêu đã đưa gia đình thánh trở về Na-za-rét. Ở đó thánh Giuse cung phụng cho gia đình thánh như có thể bằng cách làm nghề thợ mộc. Giáo hội thánh hoá đời sống gia đình qua Bí tích hôn phối. Giáo hội coi Bí tích hôn phối là thánh thiện vì đời sống nhân loại mong được thánh thiện nếu muốn được phản ảnh Gia đình thánh. Gia đình thánh nêu ra tấm gương mà mỗi gia đình tốt phải noi theo. Gia đình Na-gia-rét được gọi là thánh, không phải chỉ tại Chúa Giêsu là thánh, mà còn tại Gia đình thánh đã đem ra thực hành những lời khuyên dạy khôn ngoan mà người Do thái đã tích lũy cho đời sống gia đình hạnh phúc. Đó là điều mà bài sách Huấn ca hôm nay dạy ta: Ai vâng lệnh Chúa, sẽ làm cho mẹ an lòng (Hc 3,6). Điều đó có nghĩa là người mẹ sẽ được hạnh phúc khi con mình vâng lệnh Chúa là nguồn mạch mọi sự khôn ngoan.
Giáo hội trình bày Gia đình Na-gia-rét là Gia đình lý tưởng cũng ý thức được những khiếm khuyết mà có thể làm ly tán bất cứ đời sống gia đình nhân loại nào. Đó là lý do tại sao trong thư gửi tín hữu Co-lo-sê thánh Phaolô khuyên họ làm sao sống tinh thần Ki-tô giáo. Thánh nhân khuyên họ hãy mặc lấy những tâm tình từ bi, nhân hậu, khiêm cung, ôn hoà, nhẫn nại, chịu đựng lẫn nhau và hãy tha thứ cho nhau (Cl 3,12-13). Trong gia đình, các phần tử được kêu gọi mang trách nhiệm cho nhau. Thành phần tàn tật, thành phần đổ vỡ trong gia đình phải được coi là thành phần trong gia đình. Và thành phần quá cố trong gia đình cũng phải nằm trong lời cầu nguyện của gia đình.
Gia đình thánh mà Giáo hội mừng lễ hôm nay phải là mẫu mực cho mọi gia đình noi theo. Mỗi phần tử trong gia đình có thể bắt chước được những gì nơi Chúa Hài nhi, nơi mẹ Mara, nơi thánh Giuse? Và ta cũng cầu nguyện cho sự thành đạt và hạnh phúc cho đời sống gia đình. [Mục Lục]
Tổ chức Kỷ lục Việt Nam được sự hỗ trợ của Trung ương Hội Người cao tuổi Việt Nam vừa qua đã công nhận kỷ lục cặp vợ chồng cao tuổi nhất Việt Nam thuộc về vợ chồng cụ Cao Viễn (SN 1908) và Vũ Thị Hai (SN 1914) ở làng Phượng Lịch, xóm Hai, xã Diễn Hoa, huyện Diễn Châu, Nghệ An.
Cụ Cao Viễn chia sẻ bí quyết sống lâu của hai cụ là sống thật lạc quan và vui vẻ. Dù đều đã bước qua tuổi 100 nhưng hai cụ vẫn còn rất khỏe mạnh và minh mẫn. Cụ ông Cao Viễn vẫn còn rất lanh lợi. Hai cụ vẫn có thể đọc báo, xem ti vi, làm những công việc trong gia đình, nuôi dạy các cháu, chắt. Cụ ông vẫn viết nhật ký, làm thơ, viết chữ với những nét rõ ràng khiến nhiều người trẻ phải bái phục.
Vừa mở chiếc ti vi nhỏ của gia đình cụ, ông Cao Viễn vừa tâm sự: “Tôi rất thích xem các chương trình thời sự, tin tức và đọc báo. Thấy chúng tôi sống “lâu quá”, người ta cứ đồn thổi rằng chúng tôi có bí quyết, hay thuốc gia truyền gì. Nhưng điều đó là hoàn toàn không có. Chúng tôi cũng chỉ ăn uống bình thường, thậm chí có thời gian còn không có cháo mà ăn ấy chứ”, nói đoạn cụ ông Cao Viễn nhìn sang vợ mình cười hạnh phúc.
Hai cụ kể cho chúng tôi nghe những câu chuyện từ nạn đói 1945. Lúc đó các con còn nhỏ, hai vợ chồng cụ phải chia bát cháo ít ỏi cho các con ăn cầm hơi. Rồi đến những ngày đất nước chìm trong khói lửa chiến tranh, lúc cụ ông lên đường nhập ngũ, rồi lần lượt các con cũng ra chiến trận. Trong trí nhớ của hai cụ, lịch sử vẫn còn vẹn nguyên, không hề bị xáo trộn.
Lấy nhau sinh được 8 người con (3 trai, 5 gái), hiện hai cụ đã có 34 cháu nội, ngoại. Cùng nhau bước qua thế kỷ thứ 2, đôi vợ chồng già vẫn vẹn nguyên những hạnh phúc như thuở ban đầu.“Ngày trước có những năm đến cháo không có mà ăn gia đình phải đào cả củ chuối, nhặt từng cái rễ khoai mà ăn chứ nói đến thuốc thang hay bí quyết gì để mà sống được lâu. Nhưng với vợ chồng chúng tôi, khi nào gia đình cũng phải vui vẻ lạc quan, sống nhân đức, hòa thuận. Khó khăn thì phải cùng nhau khắc phục chứ không được cãi cọ hay mâu thuẫn. Như vậy mình mới sống được mà không đau ốm bệnh tật và sống được lâu với con cháu” – cụ bà Vũ Thị Hai chia sẻ về cuộc sống hạnh phúc của gia đình vợ chồng mình suốt 2 thế kỷ qua.
Hiện tại con cháu hai cụ đều đã ra ở riêng, thỉnh thoảng mới đến chăm sóc được bố mẹ. Vì vậy mọi sinh hoạt thường nhật từ bữa cơm, giấc ngủ hai vợ chồng cụ đều tự lo liệu. Tất cả mọi công việc hai cụ đều cùng nhau làm, từ xem ti vi, dọn dẹp nhà cửa đến nấu một nồi cháo. Cũng vì cuộc sống viên mãn, trường thọ của hai cụ mà người dân trong vùng thường xuyên nhờ hai cụ làm người chúc phúc lành cho những cặp vợ chồng mới cưới. (Nguyễn Tình – Lany Nguyễn, Dân Trí, Cặp vợ chồng cao tuổi nhất Việt Nam chia sẻ bí quyết trường thọ)
Hôm nay, Hội Thánh long trọng mừng Lễ Thánh Gia, khuôn mẫu lý tưởng cho mọi gia đình sống hạnh phúc, bình an và vững bền. Khi tất cả thành viên gia đình đều quy hướng về Đức Giêsu, luôn là trọng tâm của mỗi người, thì cuộc sống gia đình mãi ổn định và phát triển.
Sống cùng
Mẹ Maria được sứ thần Gabriel loan báo vinh dự được làm Mẹ Đấng Cứu Thế, cũng như Người Công Chính, Thánh Giuse được báo mộng đón nhận bổn phận cao cả làm cha nuôi Đức Giêsu. Cả hai đấng cùng nhau đồng tâm thực hiện Thánh Ý Chúa trao phó, mặc bao gian nan, thử thách. Cùng nhau lận đận về quê Bêlem, khi Mẹ Maria sắp đến ngày lâm bồn. Chật vật, khó khăn, thiếu thốn khi sinh nở. Trốn tránh, tản cư, vượt biên, khi vua Hêrôđê tàn sát con trai đầu lòng. Thánh Gia vẫn bền vững trong bao cơn sóng gió, vì Thánh Giuse và Mẹ Maria luôn vâng theo Thánh Ý hướng dẫn, và luôn có Chúa ở cùng.
Bao lâu, có Chúa cùng đồng hành, thì gia đình vượt qua tất cả mọi nghịch cảnh, mọi thách đố, kể cả bệnh tật, tai ương, hoạn nạn. Có Chúa sống cùng trong tâm hồn, trong lời nói, trong hành xử, trong việc làm, mọi thành viên gia đình thảy đều đồng cảm, đồng tâm, đồng hành với nhau, như Thánh Phaolô khuyên sống hòa đồng, hòa hợp cùng nhau: “Vui với người vui, khóc với người khóc” (Rm 12, 15).
Sống cho
“Ai muốn theo Tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo.” (Lc 9, 23) Để có Chúa hiện diện trong tâm hồn, thì tiên quyết phải xả kỷ, từ bỏ bản ngã, cái tôi hẹp hòi, độc đoán bất nhân, bất nghĩa, bất khoan dung, để sống cho người, cho tha nhân. “Khi tỉnh giấc, ông Giuse làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà.” Người Công Chính không so đo, tự ái, vị kỷ, không bối rối vương vấn, không sống theo ý riêng, quyết tâm vâng theo Thánh Ý Chúa, nhiệt thành, hăng say, cộng tác, phục vụ đắc lực chương trình Cứu Độ.
Mẹ khiêm hạ, tự xóa mình đi, sẵn sàng vâng theo Thánh Ý, khi thưa sứ thần: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi, như lời sứ thần nói.” (Lc 1, 38) Mẹ hoàn toàn phó thác, sống cho Ơn Gọi.
Còn Đức Giêsu gặp lại cha mẹ sau ba ngày ở lại đền thờ giải đáp Kinh Thánh, cũng luôn tuân phục Thánh Giuse và Mẹ Maria. “Người đi xuống cùng vời cha mẹ, trở về Nadareth và hằng vâng phục các ngài. (Lc 2, 51) Thánh Phaolô cũng dạy dỗ con cháu biết hiếu thảo cha mẹ: “Con cháu phải học cho biết ăn ở hiếu thảo đối với gia đình mình, và đền ơn đáp nghĩa các bậc sinh thành. Đó là điều đẹp lòng Thiên Chúa.” (1Tm 5, 4).
Sống vì
Ông bà cụ Cao Viễn kể trên đã sống đúng theo truyền thống dân tộc: “Sống vì mồ mả, không sống vì cả bát cơm.” Sống không phải bon chen, giành giựt, gian ác, làm giàu, mà nghĩ đến khi qua đời, làm sao mồ yên mả đẹp, để lo tu thân tích đức.Nên dù khó khăn, đói rách, các cụ vẫn vui vẻ chia sẻ, phục vụ lẫn nhau, con cháu và xóm giềng, mong để lại phúc đức cho con cháu hưởng nhờ. Người Kitô hữu có mục đích sống còn linh thiêng, cao quý hơn nữa. Đó là sống vì đạo. Trở nên chứng nhân của Đức Giêsu, giữa xã hội xô bồ tôn thờ bái vật.
Thánh Phaolô vạch rõ mục đích sống của Kitô hữu : “Không ai trong chúng ta sống cho chính mình, cũng như không ai chết cho chính mình. Chúng ta có sống là sống cho Chúa, mà có chết cũng là chết cho Chúa. Vậy, dù sống, dù chết, chúng ta vẫn thuộc về Chúa.Vì Đức Kitô đã chết và sống lại, chính là để làm Chúa kẻ sống cũng như kẻ chết” (Rm 14,7-9).
Me Maria luôn sống vì Con Mẹ, đồng cảm, đồng hành cùng Người suốt 33 năm, âm thầm đau khổ trước thái độ chống báng và ám hại của thần quyền lẫn thế quyền đối với Con Mẹ, như ông Simêôn đã tiên tri: “Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà.” (Lc 2, 5)
“Phần thứ nhất của tiệc cưới Cana là yêu thương và hưởng thụ, nhưng giữa tiệc cưới chỉ còn nước! Đôi tân hôn mới ý thức rằng: phương tiện mình hạn hẹp, tình yêu mình lạnh nhạt!
Phần thứ hai của tiệc cưới Cana là khám phá ra kho tàng đạo đức chưa được sử dụng, rượu sau ngon hơn rượu trước: Một tình yêu chân thực, một quả tim biết thắng mình, quên mình, trung thành và hiến dâng không đòi lui.” (Đường Hy Vọng, số 464)
Lạy Chúa Giêsu, xin Người dạy chúng con biết sống cùng nhau, chia sẻ ngọt bùi cay đắng, biết sống cho đi, phục vụ tha nhân, cũng như biết sống vì Chúa, làm chứng nhân Tình Yêu. Kính xin Người ban Đức Chúa Thánh Thần xuống cho chúng con, biết can đảm sống theo Lời Chúa.
Lạy Mẹ Maria, kính xin Mẹ cầu bầu, chỉ dạy chúng con noi gương Mẹ, luôn sống bên Chúa, luôn vâng theo Thánh Ý Chúa, cùng luôn chấp nhận đau thương vì Chúa. Amen. [Mục Lục]
Con trẻ lớn lên, đầy khôn ngoan, ơn nghĩa Thiên Chúa ở cùng Người
Hôm nay chúng ta mừng kính Thánh Gia Thất: Chúa Giêsu, Đức Bà và Thánh Giuse, một gia đình gương mẫu cho mọi gia đình trên thế giới. Bài Tin Mừng cho chúng ta một hình ảnh của đời sống gia đình, dù đó là gia đình Thánh. Các Ngài đã chu toàn lề luật Do Thái lúc đó: “Đủ ngày thanh tẩy theo luật Môisen, cha mẹ Chúa Giêsu liền đem Người lên Giêrusalem để hiến dâng cho Chúa… và cũng để dâng lễ vật cho Chúa”. Chính tại nơi đó Thánh Thần Chúa đã tỏ cho ông Simêon và và Anna về ơn Cứu Độ của Thiên Chúa đối với dân Người. Cũng tại nơi đây, được ơn linh ứng, ông già Simêon đã tiên báo về sự tham gia của Đức Maria trong cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu sau này.
Nhìn vào xã hội ngày nay, nhiều nền tảng gia đình lung lay, rối loạn và khủng hoảng. Đây chính là lúc mỗi người tín hữu Kitô phải nhìn lại mình trong ơn gọi gia đình qua gương mẫu của gia đình Thánh Gia Thất mà củng cố gia đình trong đức tin và cuộc sống. Một trong những điều căn bản nơi hạnh phúc gia đình mà nhiều khi người ta quên lãng, tức mỗi thành viên gia đình biết trao tặng tình yêu thương và thời giờ cho nhau. Chúng ta thường mong đợi người khác quan tâm đến những nhu cầu vật chất và tinh thần của mình, nhưng chính chúng ta lại ít khi nhớ tới hoặc để ý tới nhu cầu của những người thân yêu của mình. Bởi vì tình yêu thương không phải là cho đi cái gì, mà chính là cho đi bản thân mình. Nhưng không thể nói được là chúng ta đã cho đi chính mình hay tận hiến nếu chúng ta còn là nô lệ “cái tôi” ích kỷ nơi chính bản thân mình. Bao lâu chúng ta biết biến đổi bản thân mình để chấp nhận một cuộc sống yêu thương nơi tương quan vợ chồng, cha mẹ với con cái, chúng ta sẽ thể hiện một sự tận hiến của tình yêu thương.
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II hằng nhắc nhở chúng ta về sự thánh thiêng của gia đình khi ngài gọi gia đình là: “Nền tảng của Giáo Hội”. Còn Đức Phaolô VI gọi gia đình là: “Cung Thánh của Giáo Hội”, là “trường học đầu tiên của con cái, mà cha mẹ là thầy dạy”. Thật vậy, gia đình là Giáo Hội đầu tiên, nơi tình yêu chung thủy của hai vợ chồng thể hiện như dấu chỉ tình yêu chung thủy giữa Chúa Kitô và Giáo Hội: gia đình nơi trẻ em được Rửa tội qua đức tin của cha mẹ, ông bà. Gia đình còn là trường học đầu tiên, nơi bàn ăn gia đình, các em được học hiểu ý nghĩa của Tiệc Thánh Thể trước khi các em được Rước lễ lần đầu; cũng nơi đó mỗi thành viên gia đình tha thứ cho nhau những lầm lỗi, để cho con cái học hiểu hiệu quả nơi nhiệm tích Hòa giải. Gia đình còn là nơi đặc biệt sống lời Chúa Giêsu đã phán: “Đâu có hai ba người hợp nhau cầu nguyện nhân danh Thầy, Thầy ở giữa họ” (Mt 18,20)
Như vậy, trong cuộc sống hôn nhân và gia đình, khi mỗi người chúng ta biết thành tâm tìm kiếm Chúa và phụng sự Ngài, chắc chắn mỗi gia đình sẽ thể hiện được ơn gọi sống Thánh giữa đời của mình, tìm được bình an hạnh phúc cho nhau ở trần gian và đạt được hạnh phúc vĩnh cửu quê trời. Vì Thiên Chúa luôn là chìa khóa của hạnh phúc nơi cuộc sống gia đình.
Ước mong mỗi bậc cha mẹ luôn là tấm gương của tình yêu chân thành, tình yêu vô vị lợi, của hy sinh, chấp nhận, tha thứ và quảng đại trong cuộc sống hôn nhân. Vì con cái chỉ có thể lớn lên, khôn ngoan, có ơn nghĩa cùng Thiên Chúa nếu như chúng cảm nhận một bầu khí thánh thiện đạo đức nơi cha mẹ, như gương lành của Đức Maria và Thánh Giuse khi xưa.
Ước mong con cái ngày nay biết nhìn gương Chúa Giêsu đã vâng lời khiêm hạ với Đức Mẹ và Thánh Giuse suốt 30 năm trường dưới mái nhà Nazareth để trở nên một tấm gương hiếu thảo cho mọi người con biết thực thi lệnh truyền của Thiên Chúa: Vâng lời và yêu mến cha mẹ. Vì niềm vui và hạnh phúc của cha mẹ cũng là nơi con cái mình.
Trong thánh lễ hôm nay, chúng ta hãy cầu xin Chúa, nhóm lên trong mỗi phần tử trong gia đình ngọn lửa tình yêu Chúa để mỗi người biết sống trọn vẹn ơn gọi của mình, để gia đình chúng ta có hạnh phúc thật như gia đình Nazareth xưa. Amen [Mục Lục]
Lễ Giáng sinh là lễ của ánh sáng. Đêm Noel, không những trong ngôi thánh đường này, mà khắp nơi trên thế giới, ánh sáng rực rỡ hơn mọi ngày. Không phải chỉ là ánh sáng vật chất bên ngoài, nhưng chính là ánh sáng chân thật của Đấng Cứu thế bừng lên trong lòng thế giới. Sự kiện lớn lao ấy đã bắt đầu một cách khiêm tốn tại một nơi được dùng để nhốt thú vật, một nơi tối tăm hôi thối và ẩm ướt. Việc đầu tiên của thánh Giuse khi tới đó, là nhóm lên một bếp lửa, cho ấm áp và sáng sủa để dọn dẹp.
Trong triết học người ta thích định nghĩa ngôi nhà bằng bếp lửa. Nếu chỉ có bốn bức vách và hai mái che mưa nắng thì chưa được gọi là nhà, cần phải có một bếp lửa nữa mới thực sự là chỗ ở của con người.
Bếp lửa cần thiết không những để sưởi ấm mà còn để nuôi sống con người. Một trong những điểm làm cho con người khác hẳn con vật là biết dùng lửa. Khi bếp lửa được nhóm lên nơi hang đá Bêlem, thì chỗ cư ngụ của thú vật đã trở nên một tổ ấm, một mái nhà cho một gia đình nghèo khổ của thánh Giuse, Đức Mẹ và hài nhi Giêsu, cũng như đã trở nên một hình ảnh tượng trưng cho thế giới, cho nhân loại.
Thực vậy, từ đầu Thiên Chúa đã dựng nên vũ trụ và Ngài đã đem tình thương của Ngài đặt vào đó, và thế giới này trở thành một quê hương, một tổ ấm của con người. Thế nhưng con người đã từ chối tình thương ấy, khi xua đuổi Thiên Chúa. Con người đã dập tắt bếp lửa yêu thương mà Thiên Chúa đã nhóm lên trong lòng họ. Từ đó, chỗ ở của họ đã trở thành hoang vu, tình thương đã bị thay thế bằng hận thù, sự thật đã bị thay thế bằng gian tham lừa đảo.
Tuy nhiên, Thiên Chúa vẫn không bỏ mặc con người. Ngài đã sai con Ngài sinh ra trong cảnh tiêu điều tăm tối, để nhóm lại bếp lửa, biến đổi nơi hoang tàn trước kia trở thành một tổ ấm. Đức Kitô đã trở nên anh em của loài người. Ngài đã qui tụ tất cả lại trong gia đình con cái Thiên Chúa.
Vì vậy tiên tri Isaia đã xác quyết: Nhân loại bước đi trong u tối đã nhìn thấy ánh sáng chan hòa. Anh sáng ấy, ngọn lửa ấy không phải là của một que diêm, một bó đuốc, nhưng là của mặt trời. Đức Kitô là mặt trời công chính soi chiếu khắp chốn trần gian. Ngài là tình thương của Thiên Chúa sưởi ấm loài người.
Kể từ nay, thế giới biến thành một tổ ấm, một gia đình của con cái Thiên Chúa, vì có bếp lửa là chính Chúa Giêsu ở giữa. Hôm nay, ánh sáng không phải chỉ bao trùm trên những người chăn chiên, mà còn bao trùm trên toàn thể Bêlem, toàn thể xứ Giuđêa và toàn thể địa cầu.
Thế nhưng Bêlem vẫn ngủ mê, Giuđêa vẫn đắm chìm trong quên lãng và nhân loại vẫn vùi sâu trong lầm lạc. Chỉ có những tấm lòng đơn sơ nhỏ bé như những người chăn chiên mới đón nhận được ánh sáng ấy.
Đức Kitô đã biến thế giới này trở thành một tổ ấm, một gia đình cho những người con cái Thiên Chúa, nhưng điều ấy có ý nghĩa gì nếu chính gia đình nhỏ bé của chúng ta vẫn hoang tàn lạnh lẽo thiếu hẳn hơi ấm yêu thương, chỉ còn là một chỗ cho cãi cọ, xích mích và đay nghiến.
Bởi đó, hãy nhóm lại bếp lửa yêu thương cho gia đình chúng ta. Đây không phải là một chuyện quá khó, bởi vì lễ Giáng sinh nhắc cho chúng ta nhớ rằng: Anh sáng mặt trời đã tràn ngập, chỉ cần mở rộng cửa cho ánh sáng ấy tràn vào. Hãy đón Chúa Giêsu vào nhà để Ngài qui tụ mọi người thành con cái Thiên Chúa.
Hãy để tình yêu Ngài tràn ngập hầu gia đình chúng ta thực sự là một mái ấm đầy tràn hạnh phúc của những người con Thiên Chúa. [Mục Lục]
Hoàng đế của một vương quốc hùng cường và thịnh vượng, một ngày kia đã triệu tập các nghệ nhân từ khắp các nước đến dự một cuộc tranh tài. Cuộc thi mô tả dung mạo hoàng đế.
Các nghệ nhân An Độ đến với đầy đủ dụng cụ và các loại đá hoa cương quí hiếm. Các nghệ nhân Acmêni mang theo một loại đất sét đặc biệt. Các nghệ nhân Ai Cập mang đủ loại đồ nghề và khối cẩm thạch hảo hạng. Sau cùng, người ta hết sức ngạc nhiên vì phái đoàn nghệ nhân Hy Lạp chỉ mang đến vỏn vẹn một gói thuốc đánh bóng. Mỗi phái đoàn thi thố tài năng của mình trong một phòng riêng. Khi thời gian ấn định đã hết, hoàng đế đến từng gian phòng để thưởng thức các tác phẩm. Vua hết lời khen ngợi bức chân dung của mình do các họa sĩ An Độ vẽ. Ông càng thán phục hơn khi nhìn ngắm các pho tượng của chính ông mà các người Ai Cập và Acmêni điêu khắc. Sau cùng, đến phòng trưng bày của người Hy Lạp, hoàng đế không nhìn thấy gì cả, duy chỉ có bức tường của căn phòng được đánh bóng đến độ khi nhìn vào ông thấy chân dung mình hiện ra từng nét. Dĩ nhiên, giải nhất thuộc về các nghệ nhân Hy Lạp. Bởi vì họ đã hiểu rằng chỉ có hoàng đế mới họa được dung mạo của chính mình.
Muốn họa lại dung mạo Đức Kitô, chúng ta cần phải đánh bóng lòng mình cho sạch mọi vết nhơ, mọi tì ố của tâm hồn. Một khi đã nên sáng bóng như gương, chúng ta sẽ tiếp nhận được khuôn mặt rạng ngời của Chúa.
Khi Đức Maria và thánh Giuse dâng Chúa Hài nhi trong đền thánh, có biết bao tư tế và luật sĩ thông thái, giỏi giang, am tường Kinh Thánh, và hiểu rõ các lời tiên tri loan báo về Đấng Cứu thế, nhưng họ đã không nhận ra Chúa. Duy chỉ có ông Simêon, và bà Anna đã nhận ra được dung mạo của Người. Simêon và Anna đã dâng hiến trọn vẹn con người và cuộc đời, đã mài bóng đời mình bằng đạo hạnh và khiêm tốn, đã tôn thờ Chúa trong tin yêu và phó thác. Vì thế, dung mạo của Đấng Cứu thế đã tỏ hiện sáng ngời trước mặt các ngài. Simêon và Anna đã đón nhận Đấng Cứu thế như những người nghèo hèn bé nhỏ. Các ngài đã được bồng ẵm Chúa, được thay mặt cho cả nhân loại nói lời đầu tiên tôn vinh Chúa đến cứu độ con người.
Lễ Thánh Gia mời gọi chúng ta nhìn vào các gia đình. Truyền thống gia đình ngày càng sút giảm. Ly thân, ly dị, trẻ em lang thang, thanh niên nổi loạn, phá thai, mại dâm, ma túy ngày càng gia tăng. Gia đình là nền tảng của xã hội. Nếu không có những gia đình lành mạnh thì không thể có một xã hội tốt đẹp. Cuộc sống của gia đình phải tỏa hương thơm của thiên đàng.
Hơn bao giờ hết, các gia đình chúng ta phải nhìn lên Thánh Gia thất: một gia đình lý tưởng, đạo đức, yêu thương và chăm lo cho nhau. Thánh Luca đã ghi lại hình ảnh rất đẹp của Thánh Gia như sau: “Đức Giêsu đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Nagiarét và hằng vâng phục các ngài. Riêng Mẹ Người hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng. Còn Đức Giêsu ngày càng khôn lớn, và được Thiên Chúa cũng như mọi người thương mến”.
Xã hội chúng ta không thiếu các mẫu gương đạo hạnh: Louis Pasteur, nhà bác học thời danh, đã tâm sự khi đặt tấm bia kỷ niệm tại gia đình ông: “Kính thưa cha mẹ thân yêu của con đã khuất bóng, các ngài đã khiêm tốn sống trong nếp nhà bé nhỏ này. Con mắc nợ công ơn cha mẹ về hết mọi điều…”.
Federic Ozanam, nhà hoạt động xã hội nổi tiếng của Giáo Hội Pháp cũng tâm sự: “Những lời khuyên nhủ dịu dàng của mẹ tôi, gương đạo đức, lòng nhiệt thành hâm nóng linh hồn nguội lạnh của tôi, khuyến khích nâng đỡ tăng sức mạnh cho tôi. Chính nhờ giáo huấn của người mà tôi có đức tin”.Có lẽ thế giới biết nhiều đến thủ tướng Thái Lan, nhưng ít ai biết được cậu Chuam Leekpai còn là một người con giàu cảm xúc, hiếu thảo, và luôn nghĩ đến bậc sinh thành. Ông nói với mẹ: “Giờ đây, con đã là một chính trị gia và con không còn thời gian về thăm mẹ thường xuyên nữa. Điều này làm con cứ áy náy mãi. Tuổi mẹ càng cao thì nỗi lo của con càng nhiều. Do đó con cố gắng tìm mọi cơ hội về thăm mẹ”.
Đức Pio XI trong thông điệp về Giáo dục Kitô giáo có viết: “Nền giáo dục hữu hiệu nhất và bền bỉ nhất là nền giáo dục được nhận lãnh từ một gia đình Kitô giáo có qui củ và khuôn phép. Những gương lành của cha mẹ và của những người trong gia đình càng chiếu tỏa và bền bỉ, thì kết quả của giáo dục càng lớn lao”. [Mục Lục]
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
- Dẫn vào Thánh lễ
Con Thiên Chúa đã sinh ra làm người và sống trong một gia đình. Gia đình của Ngài gồm có Thánh Giuse, Đức Mẹ Maria và Ngài. Một gia đình rất thánh thiện, gương mẫu. Hôm nay dâng lễ mừng kính Thánh Gia, chúng ta hãy học nơi các Ngài những đức tính cần có trong cuộc sống gia đình, và chúng ta xin các Ngài ban ơn cho gia đình chúng ta.
- Gợi ý sám hối
Chúng ta hãy ăn năn sám hối vì những thiếu sót của chúng ta đối với những người trong gia đình mình.
Chúng ta hãy ăn năn sám hối vì chưa dành chỗ xứng đáng cho Chúa trong gia đình mình.
Chúng ta hãy ăn năn sám hối vì những gương xấu mà gia đình mình đã gây ra cho những gia đình chung quanh.
III. Lời Chúa
- Bài đọc I: Hc 3, 3-7. 14-17a
Huấn ca là một tập sách luận bàn về cách sống khôn ngoan trong nhiều lãnh vực. Trong đoạn này, tác giả, Ben Sira, đưa những lời khuyên về cách sống trong gia đình. Điều quan trọng nhất là con cái phải thảo kính cha mẹ. Tác giả kể ra những ích lợi của việc này:
Việc thảo kính cha mẹ sẽ đền bù được tội lỗi
Người thảo kính cha mẹ đến khi có con cái thì được con cái mình thảo kính.
Người thảo kính cha mẹ khi cầu nguyện sẽ được Chúa nhậm lời.
Phải thảo kính cha mẹ nhất là khi các ngài già yếu.
- Đáp ca: Tv 127
Tv này được hát lúc hành hương lên Đền thờ Giêrusalem. Người tín hữu hành hương tin chắc rằng ai sống công chính thì sẽ được Thiên Chúa ban phúc. Các ơn phúc Chúa ban trước hết là những ơn cho cuộc sống gia đình: việc làm ăn có kết quả, vợ con mạnh khoẻ, sống lâu v.v.
- Tin Mừng: Lc 2, 22-40
Tường thuật việc Thánh gia lên Đền thờ Giêrusalem để dâng con cho Thiên Chúa. Trong dịp này, cụ ông Simêon và cụ bà Anna nói những lời tiên tri về tương lai của Đức Giêsu.
Một số điều đáng lưu ý:
Thánh gia là một gia đình nghèo (lễ vật của người nghèo), nhưng giữ luật đạo rất chín chắn (luật thanh tẩy người mẹ sau khi sinh con, luật cắt bì cho con, luật dâng con đầu lòng cho Thiên Chúa).
Các phần tử của Thánh gia rất hiệp nhất với nhau: tất cả đều cùng nhau lên Đền thờ mặc dù luật không buộc như thế (chẳng hạn luật tẩy uế cho người mẹ chỉ buộc người mẹ lên đền thờ thôi).
Khi đó cha mẹ Đức Giêsu chưa hiểu hết mầu nhiệm con mình. Bởi vậy, khi nghe Simêon nói, hai ông bà “kinh ngạc”.
- Bài đọc II: Cl 3, 12-21
Thánh Phaolô giảng về “nếp sống mới” của những người đã cùng chết và cùng sống lại với Đức Giêsu. Nếp sống này gồm:
Những đức tính nhân bản: “Từ bi, nhân hậu, khiêm cung, ôn hòa, nhẫn nại, chịu đựng lẫn nhau và tha thứ cho nhau”.
Nền tảng và nguồn gốc của những đức tính trên là chính Thiên Chúa: “Như Chúa đã tha thứ cho anh em, anh em cũng hãy tha thứ cho nhau. Trên hết mọi sự, anh em hãy có đức yêu thương”.
Bí quyết để sống được như trên là luôn suy gẫm Lời Chúa.
Và dịp tốt thường có để thực hành các đức tính ấy chính là trong gia đình.
- Gợi ý giảng
* 1. Gia đình Nadarét và gia đình chúng ta
Gia đình Nadarét vừa giống nhưng cũng vừa khác phần lớn gia đình chúng ta:
Như phần lớn gia đình chúng ta, gia đình Nadarét nghèo. Trong Tin Mừng ta tìm thấy hai dấu chỉ tình trạng nghèo của các ngài: Khi đến Bêlem, Thánh Gia không đủ tiền để thuê một chỗ trọ trong hàng quán nên phải ở tạm trong hang súc vật; khi đem con đầu lòng dâng trong đền thờ cùng với lễ vật theo luật định, Thánh Gia chỉ dâng một đôi chim câu, là thứ lễ vật của người nghèo.
Như phần lớn gia đình chúng ta, gia đình Nadarét phải sinh nhai bằng chính sức lao động của mình. Có lẽ các ngài không có vốn để đầu tư, buôn bán. Thánh Giuse và Đức Giêsu kiếm tiền sinh sống bằng nghề thợ mộc.
Như phần lớn gia đình chúng ta, vì nghèo và vì theo nghề lao động, nên gia đình Nadarét không được người ta coi trọng cho lắm. Mãi sau này khi Đức Giêsu đã thôi làm ăn để đi rao giảng, thế mà nhiều người vẫn nhắc với giọng mỉa mai “Ông ta là con bác thợ mộc”.
Nhưng gia đình Nadarét khác hầu hết gia đình chúng ta ở nhiều điểm: một là dù nghèo nhưng không gian tham trộm cắp; hai là dù nghèo nhưng không lục đục với nhau; ba là dù nghèo nhưng vẫn thu xếp công việc được để chu toàn mọi bổn phận trong đạo.
Những nét giống giữa gia đình Nadarét và gia đình chúng ta khiến chúng ta cảm thấy gần gũi với Thánh gia, và nhớ đó chúng ta biết mình có thể học với các ngài ở những điểm khác biệt với chúng ta.
* 2. Tương lai của đứa con gia đình
Trong ngày lễ đặt tên cho Gioan Tẩy giả, bà con lối xóm đã đặt câu hỏi “Đứa trẻ này rồi ra sẽ thế nào?” (Lc 1, 66). Đây là câu hỏi của mọi người làm cha mẹ. Càng thương con bao nhiêu, câu hỏi đó càng là mối băn khoăn cho cha mẹ bấy nhiêu, bởi vì cha mẹ thương con chỉ muốn cho con mình có một tương lai tốt đẹp, nhưng tương lai ấy lại không do cha mẹ hoàn toàn lo liệu cho con được.
Cha mẹ Đức Giêsu cũng thế. Bởi vậy, sau khi nghe cụ Simêon nói về tương lai của trẻ Giêsu bằng những lời rất khó hiểu, Tin Mừng viết, “Cha mẹ Ngài đều kinh ngạc”.
Nhưng tương lai của đứa con không hoàn toàn không có phần của cha mẹ. Điều này rất rõ trong trường hợp Đức Giêsu:
Người ta vẫn nói Ngài là “con bác thợ mộc” (Mc 6, 3).
Đức Giêsu có thói quen cầu nguyện và sống với Chúa Cha. Thói quen này hẳn là Ngài đã học được từ gia đình. Tin Mừng tuy nói rất ít về thời thơ ấu của Ngài, nhưng cũng đủ cho ta thấy Thánh gia rất quan tâm chu toàn những bổn phận tôn giáo.
* 3. Dung mạo Chúa cứu thế
Hoàng đế của một vương quốc hùng cường và thịnh vượng, một ngày kia đã triệu tập các nghệ nhân từ khắp các nước đến dự một cuộc tranh tài. Cuộc thi mô tả dung mạo hoàng đế.
Các nghệ nhân Ấn Độ đến với đầy đủ dụng cụ và các loại đá hoa cương quí hiếm. Các nghệ nhân Acmêni mang theo một loại đất sét đặc biệt. Các nghệ nhân Ai cập mang đủ loại đồ nghề và khối cẩm thạch hảo hạng.
Sau cùng, người ta hết sức ngạc nhiên vì phái đoàn nghệ nhân Hy Lạp chỉ mang đến vỏn vẹn một gói thuốc đánh bóng.
Mỗi phái đoàn thi thố tài năng của mình trong một phòng riêng. Khi thời gian ấn định đã hết, hoàng đế đến từng gian phòng để thưởng thức các tác phẩm. Vua hết lời khen ngợi bức chân dung của mình do các họa sĩ Ấn Độ vẽ. Ông càng thán phục hơn khi nhìn ngắm các pho tượng của chính ông mà các người Ai Cập và Acmêni điêu khắc.
Sau cùng, đến phòng trưng bày của người Hy Lạp, hoàng đế không nhìn thấy gì cả, duy chỉ có bức tường của căn phòng được đánh bóng đến độ khi nhìn vào ông thấy chân dung mình hiện ra từng nét.
Dĩ nhiên, giải nhất thuộc về các nghệ nhân Hy Lạp. Bởi vì họ đã hiểu rằng chỉ có hoàng đế mới họa được dung mạo của chính mình.
*
Muốn họa lại dung mạo Đức Kitô, chúng ta cần phải đánh bóng lòng mình cho sạch mọi vết nhơ, mọi tì ố của tâm hồn. Một khi đã nên sáng bóng như gương, chúng ta sẽ tiếp nhận khuôn mặt rạng ngời của Chúa.
Khi Đức Maria và Thánh Giuse dâng Chúa Hài Nhi trong đền thánh, có biết bao tư tế và luật sĩ thông thái, giỏi giang, am tường Kinh Thánh, nhưng họ đã không nhận ra Chúa. Duy chỉ có ông Simêon, và bà Anna đã nhận ra được dung mạo của Người.
Simêon và Anna đã dâng hiến trọn vẹn con người và cuộc đời, đã mài bóng đời mình bằng đạo hạnh và khiêm tốn, đã tôn thờ Chúa trong tin yêu và phó thác. Vì thế, dung mạo của Đấng Cứu Thế đã tỏ hiện sáng ngời trước mặt các ngài.
Simêon và Anna đã đón nhận Đấng Cứu Thế như những người nghèo hèn bé nhỏ. Các ngài đã được bồng ẵm Chúa, được thay mặt cho cả nhân loại nói lời đầu tiên tôn vinh Chúa đến cứu độ con người.
Lễ Thánh Gia mời gọi chúng ta nhìn vào các gia đình. Truyền thống gia đình ngày càng sút giảm. Ly thân, ly dị, trẻ em lang thang, thanh niên nổi loạn, phá thai, mại dâm, ma tuý ngày càng gia tăng. Gia đình là nền tảng của xã hội. Nếu không có những gia đình lành mạnh thì không thể có một xã hội tốt đẹp. Cuộc sống của gia đình phải tỏa hương thơm của thiên đường.
Hơn bao giờ hết, các gia đình chúng ta phải nhìn lên Thánh gia thất: một gia đình lý tưởng, đạo đức, yêu thương và chăm lo cho nhau. Thánh Luca đã ghi lại hình ảnh rất đẹp của Thánh Gia như sau: “Đức Giêsu đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Nadaret và hằng vâng phục các ngài. Riêng mẹ Người hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng. Còn Đức Giêsu ngày càng khôn lớn, và được Thiên Chúa cũng như mọi người thương mến” (Lc. 2, 51-52).
Xã hội chúng ta không thiếu các mẫu gương đạo hạnh: Louis Pasteur, nhà bác học thời danh, đã tâm sự khi đặt tấm bia kỷ niệm tại gia đình ông: “Kính thưa cha mẹ thân yêu của con đã khuất bóng, các ngài đã khiêm tốn sống trong nếp nhà bé nhỏ này. Con mắc nợ công ơn cha mẹ về hết mọi điều…”
Federic Ozanam, nhà hoạt động xã hội nổi tiếng của Giáo hội Pháp cũng tâm sự: “Những lời khuyên nhủ dịu dàng của mẹ tôi, gương đạo đức, lòng nhiệt thành hâm nóng linh hồn nguội lạnh của tôi, khuyến khích nâng đỡ sức mạnh cho tôi. Chính nhờ giáo huấn của người mà tôi có đức tin”.
Có lẽ thế giới biết nhiều đến Thủ tướng Thái Lan, nhưng ít ai biết được cậu Chuam Leekpai còn là một người con giàu cảm xúc, hiếu thảo, và luôn nghĩ đến bậc sinh thành. Ông nói với mẹ: “Giờ đây, con đã là một chính trị gia và con không còn thời gian về thăm mẹ thường xuyên nữa. Điều này làm con cứ áy náy mãi. Tuổi mẹ càng cao thì nỗi lo của con càng nhiều. Do đó con cố gắng tìm mọi cơ hội về thăm mẹ”.
Đức Piô XI trong thông điệp về Giáo dục Kitô giáo có viết: “Nền giáo dục hữu hiệu nhất và bền bỉ nhất là nền giáo dục được nhận lãnh từ một gia đình Kitô giáo có qui củ và khuôn phép. Những gương lành của cha mẹ và của những người trong gia đình càng chiếu tỏa và bền bỉ, thì kết quả của giáo dục càng lớn lao”.
*
Lạy Đức Giêsu, xin dạy chúng con biết theo gương Chúa, luôn sống trung hiếu với Cha trên trời, thảo kính với ông bà cha mẹ, và sống hết tình với anh chị em chung quanh.
Xin cho chúng con luôn biết đánh bóng đời mình, bằng tấm lòng khiêm tốn và đạo hạnh, bằng việc tôn thờ Chúa trong tin yêu và phó thác, để dung mạo của Chúa ngày càng tỏ hiện sáng ngời trong cuộc đời chúng con. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)
* 4. Con cái
Con cái các bạn không phải là con cái của các bạn
Chúng đến qua các bạn chứ không phải từ các bạn.
Mặc dù chúng ở với các bạn nhưng chúng không thuộc về các bạn.
Các bạn có thể cho chúng tình thương nhưng không thể cho chúng ý tưởng, bởi vì chúng có những ý tưởng riêng của chúng.
Các bạn có thể lo nơi ăn chốn ở cho thân xác chúng chứ không thể cho linh hồn chúng, vì linh hồn chúng ở một nơi thuộc tương lai mà các bạn không thể đến thăm, ngay cả trong giấc mơ.
Các bạn có thể cố gắng để giống như chúng, nhưng đừng cố bắt chúng giống như các bạn.
Bởi vì cuộc sống không đi giật lùi và cũng không ngừng mãi ở ngày hôm qua.
Các bạn là những chiếc cung, và những mũi tên từ đó phóng đi chính là con cái của các bạn. (Kahil Gibran)
* 5. Đạo hiếu
Bài trích sách Huấn Ca (bài đọc I, được chỉ định đọc trong năm A, nhưng cũng có thể đọc trong năm B và C) có câu: “Ai thờ cha thì bù đắp lỗi lầm, ai kính mẹ thì tích trữ kho báu”
Những từ mà Thánh Kinh dùng rất quen thuộc với người Việt Nam. Thí dụ như câu ca dao: “Một lòng thờ mẹ, kính cha, cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”.
“Thờ” và “kính” chính là những việc làm trong tôn giáo. Hiếu thảo với cha mẹ chính là Đạo.
Câu Huấn ca và câu ca dao trên giúp ta ý thức rằng hiếu thảo với cha mẹ không chỉ là một tình cảm, cũng không phải chỉ là một lẽ công bình, mà là một Đạo. Mà lỗi đạo tức là phạm tội chứ không chỉ là một sự thiếu sót.
- Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Đức Giêsu đã làm cho Thánh gia trở nên đền thánh của sự sống, của tình thương, và của niềm vâng phục ý Chúa. Hôm nay mừng lễ Thánh Gia, chúng ta đặc biệt hướng về các gia đình và dâng lời cầu nguyện:
- Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mọi người trong Hội thánh là gia đình của Chúa / luôn cố gắng sống hiệp thông với nhau / để làm chứng cho tình yêu Chúa cho thế giới.
- Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho các bậc làm cha mẹ và các nhà giáo dục / biết hướng dẫn và cộng tác với các con em mình / để xây dựng gia đình thành một tổ ấm đầy tình yêu thương.
- Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho những người không gia đình / hoặc sống trong gia đình đang bị khủng hoảng xáo trộn / được ơn can đảm để nhẫn nhục chịu đựng / và tích cực góp phần hàn gắn lại những gì đã tan vỡ.
- Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho những người làm cha mẹ cũng như làm con cái trong xứ đạo chúng ta / luôn ý thức trách nhiệm của mình đối với hạnh phúc gia đình / để biết cởi mở, đối thoại, thông cảm và cô#ng tác với nhau theo thánh ý Chúa.
Chủ tế: Lạy Chúa, xin chấp nhận những lời cầu chúng con dâng lên Chúa nhân dịp lễ Thánh Gia, để nhờ ơn Chúa giúp, mỗi người trong gia đình đều cộng tác làm cho gia đình trở nên Đền Thánh của sự sống của tình thương, và niềm vâng phục ý Chúa. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô.
- Trong Thánh lễ
– Trước kinh Lạy Cha: Ngoài gia đình tự nhiên, người kitô hữu chúng ta còn có được một gia đình siêu nhiên trong đó Thiên Chúa là Cha, mọi người là anh em với nhau, và Đức Giêsu là anh cả. Trong tình nghĩa gia đình ấy, chúng ta hãy dâng lên Thiên Chúa lời kinh Lạy Cha.
– Trước lúc Rước lễ: Thánh lễ là một bữa ăn gia đình. Chúa là gia trưởng, các tín hữu là con cái ngồi quanh bàn ăn. Phúc cho những ai được mời vào bàn ăn gia đình ấy.
VII. Giải tán
Sau khi được khuyến khích bởi tấm gương gia đình Nadarét, giờ đây anh chị em trở về sống với gia đình mình và các gia đình hàng xóm. Anh chị em hãy sống theo gương thánh gia. Chúc anh chị em bình an. [Mục Lục]
(Suy niệm của Lm. Nhất Tiến)
Trong Phụng vụ Lời Chúa lễ kính Thánh Gia hôm nay, chúng ta được nghe lại đoạn Tin mừng (Lc 2:22-40) kể lại việc Đức Mẹ Maria và Thánh Cả Giuse dâng Chúa Giêsu Hài Nhi vào Đền Thờ Giêrusalem. Đặc biệt, ngay từ câu đầu tiên (22), trình thuật đã cho chúng ta thấy cả ba thành viên của Gia Đình Thánh lần đầu tiên cùng đi lên Giêrusalem với mục đích rõ ràng là để “chu toàn lề luật”.
Trước hết, chúng ta thấy chỉ trong một câu chuyện, từ ngữ theo “luật – law – loi” đã được Thánh ký Luca nhắc đến 5 lần (22,23,24,27,39). Như vậy, Thánh Gia lên Thành Thánh Giêrusalem là để tỏ lòng trung tín với Luật Môse; nói cho đúng hơn, để thi hành Luật Chúa (24) qua Môse truyền cho dân Israel, bao gồm quy định người mẹ phải được thanh tẩy sau khi sinh con và người con trai đầu lòng thì phải được sớm hiến thánh cho Thiên Chúa (cf. Lev.12:8; Nkm.10:36-37). Thế là, bởi hành vi theo Lề Luật, Chúa Giêsu đã được cha mẹ dâng hiến và chuộc lại bằng lễ vật hạng nhà nghèo, để nên đồng hoá với anh em nhân loại của mình mọi đàng – ngoại trừ tội lỗi (Dt.4:15). Nhưng cũng là để qua hành vi khiêm tốn vâng phục Lề Luật này, Chúa Giêsu vừa trình diện trước Thánh Nhan Chúa Cha như một người Con Rất Yêu Dấu, lại vừa công khai xuất hiện trước Cộng Đoàn Do Thái đại diện cho cả nhân loại, trong thân phận giới hạn của một Hài Nhi yếu đuối, sinh ra và sống dưới chế độ lề luật (cf. Gal 4:4). Nói cách khác, Đức Kitô, Con Thiên Chúa đến để bày tỏ Mạc Khải Cứu Độ cao vời của Thiên Chúa ngay trong phạm vi không gian và thời gian, trong sự lệ thuộc vào những quy định dành cho con người.
Như thế, Thánh Gia, từ ban đầu và trong tất cả, đã thực sự tự tình sống trong sự vâng phục Lề luật, như một bảo đảm cho cả gia đình được sống trong Ánh nhìn quan phòng yêu thương của Chúa Cha nhân từ. Con Thiên Chúa đến cứu độ nhân loại đã thật sự hoà nhịp vào cuộc sống thực tại nhân sinh; với hoàn cảnh, môi trường, giới hạn, quy định, luật lệ… cho trọn nghĩa kiếp phận con người. Nói khác đi, cả nhà gồm cha – mẹ – con đã vui lòng sống trong tinh thần lụy phục và phó dâng, trong thái độ nghiêm cẩn và khiêm hạ, trong trạng thái đón đợi Thánh Ý Thiên Chúa và chấp nhận cảnh vực trần gian với những quy luật cần thiết và chính đáng. Cũng vậy, tâm tình ngoan thảo và thái độ vâng phục của chúng ta đối với Thiên Chúa giữa thực tại gia đình, trong cộng đoàn và ngoài xã hội không phải chỉ là để tuân thủ luật pháp ràng buộc con người cho được sống bình an, hạnh phúc mà thôi; nhưng còn là để không ngừng được thăng hoa và vui tươi hơn nữa trong vị thế tự do của con cái Thiên Chúa.
Thứ đến, như trên đã nói, không những ông bố Giuse và bà mẹ Maria ẵm con trẻ Giêsu lên Đền Thờ Giêrusalem để thánh hiến cho Đức Chúa, mà còn để công khai giới thiệu Đấng Cứu Thế với cộng đoàn nhân loại. Cụ Simêon, mặc dầu không phải là tư tế, nhưng với tư cách là một tiên tri cao niên và nhờ Thánh Thần thúc đẩy, đã vui mừng và công khai xác nhận Ánh Sáng Thiên Tính của Đấng Cứu Độ muôn dân giữa trung tâm Đền Thờ tôn nghiêm, bằng bài ca “Nunc dimit is” (29-32) bất hủ của cụ. Và rồi, cùng với bà Anna, cụ Simêon đã chúc phúc cho hai ông bà và tuyên xưng Vinh Quang Thiên Chúa đã đến giữa nhân trần.
Như vậy, một khi ý thức cùng đưa nhau đến với Chúa qua Giáo Hội và sống chan hoà với mọi người chung quanh, các gia đình Kitô hữu sẽ tìm ra nhiều cơ hội thích hợp và điều kiện thuận lợi để cùng nhau ca tụng, ngợi khen Chúa vì cuộc sống chung tươi đẹp Chúa thương ban trong bậc sống gia đình, đồng thời hy vọng được nhận lãnh muôn phúc lành từ Thiên Chúa, nơi cộng đoàn Giáo Hội và qua các thánh nhân, người lành khi ở giữa khung cảnh thánh thiện của những nơi dành riêng cho việc thờ phượng Người. Ở bất cứ nơi đâu và trong hoàn cảnh nào, các gia đình thân yêu của chúng ta cũng có thể cùng nhau đồng hành trọn vẹn trong đời sống thiêng liêng và đạo đức. Hơn bao giờ hết, trong thời đại ngày nay, việc cầu nguyện cho nhau trong tình thân, quan tâm đến nhau trong cuộc sống chung, nhất là cùng thúc đẩy nhau sống Lời Chúa ngay trong môi trường gia đình, cộng đoàn và xứ đạo là tuyệt đối cần thiết! Cách riêng, gia đình vẫn là môi trường giáo dục tuyệt hảo đầu tiên, trong đó ông bà, cha mẹ, anh chị có cơ hội tốt để làm gương và dậy dỗ con cái, cháu em của mình sống trong sự hiện diện thật sự của Chúa và cảm nhận sự đồng hành sống động của Người giữa cuộc sống chung gia đình và trong cuộc đời cá nhân mỗi người; từ đó đưa dẫn những người thân yêu của mình đến lãnh nhận phúc lộc an vui từ nơi Thiên Chúa ăm ắp tình thương.
Tôi chợt nhớ đến một hình ảnh đẹp: Trên một chuyến tàu điện metro ở thủ đô Manila – Philippines, tôi ngồi đối diện với một bà mẹ trẻ đẹp, quần áo hợp thời, đang ôm chặt đứa con trai nhỏ xinh xắn trong lòng. Tay phải của chị không ngừng mân mê tràng chuỗi Mân Côi đơn sơ. Đặc biệt, mỗi khi tàu điện chạy ngang qua một nhà nguyện hay nhà thờ, chị đều nhắc con trai nhỏ của mình hướng ánh nhìn về những nơi đó và cúi đầu chào Chúa. Một lúc sau, tôi thấy chị không cần phải nhắc nữa, nhưng đứa bé cứ nhìn chăm chú ra ngoài cửa sổ và tự động cúi đầu xuống mỗi khi thấy một ngôi nhà thờ, nhà nguyện hay đơn giản chỉ là một cây thánh giá trên nóc một toà nhà. Một hình ảnh đẹp khác, như một bài học sống đạo đơn sơ mà sâu sắc từ một bà mẹ dáng nhỏ nhắn ở một giáo xứ vùng quê Cái Sắn, miền tây Việt Nam mà tôi đã từng đến giúp mục vụ ít tuần. Sau mỗi thánh lễ chiều, bà mẹ nhà quê ấy bồng đứa con trai nhỏ trên tay, nhanh chân đi về phía đài Đức Mẹ, theo sau bà là đứa con gái khoảng 3 tuổi bám chặt lấy tà áo bà ba giản dị của mẹ. Đến trước đài Đức Mẹ, bà cầu nguyện một chút, rồi cả ba mẹ con cúi mình chào kính Đức Mẹ thật sâu rồi mới ra về. Đôi khi, bà phải lấy một tay nhấn đầu đứa con trai bé bỏng mà bà đang bế, để nó cúi hẳn đầu xuống mà cùng bà chào kính Đức Mẹ.
Thật là hai hình ảnh tuyệt đẹp của cùng một cung cách bày tỏ Niềm Tin truyền thống và bình dân giữa cuộc sống đời thường. Trong khuôn viên nhà thờ miền quê hay trên hành trình xe điện thành phố, cả hai bà mẹ đều thực hành việc Giáo Dục Đức Tin cho con cái mình thật đơn thành nhưng đầy hiệu quả. Giáo Dục Đức Tin ngay từ trong gia đình là rất cần thiết, đặc biệt trong thời đại hôm nay không ít người còn rất trẻ nhưng đã sớm thất vọng não nề sau những cơn mê đắm khoái lạc giả tạo và thần tượng vô bổ chóng qua. Thực vậy, đối với các gia đình Kitô hữu, vắng bóng Thiên Chúa đồng nghĩa với bề tắc cuộc đời. Cầu mong các bậc phụ huynh của các gia đình Kitô Giáo thực sự nhận thức trách nhiệm đối với các con em mình, biết can đảm nêu gương sáng đạo đức và tích cực giáo dục người trẻ ân cần “giữ đạo” cách xác tín và “sống đạo” cách trưởng thành; bằng cách không ngừng thúc đẩy và dẫn đưa chúng tìm đến Thiên Chúa là Cội nguồn Tình yêu và Ân sủng, Bình an và Hạnh phúc đích thực trường cửu.
“Lạy Thánh Gia Nazareth, xin làm cho các gia đình chúng con trở nên Nơi hiệp thông và Nhà tạm của cầu nguyện, trở thành Trường học đích thực của Phúc Âm và Giáo Hội bé nhỏ tại gia…” (trích Lời kinh Đức thánh cha Phanxicô soạn trong dịp chuẩn bị Thượng hội đồng Giám mục về Gia đình, 10.2014). [Mục Lục]
Hôm nay Giáo Hội muốn chúng ta chiêm ngưỡng Thánh Gia: Chúa Giêsu, Đức Maria và thánh Giuse, một gia đình kiểu mẫu cho mọi gia đình. Vậy theo gương Thánh Gia, mỗi gia đình Công giáo phải thế nào?
Tình yêu không phải là một xa xỉ phẩm, nó là một thứ tối cần để nâng đỡ và xây dựng cuộc sống. Tình yêu làm nên hạnh phúc. Vì thế, đi tìm và đón nhận tình yêu không phải là việc không quan trọng. Nhưng trước khi đi tìm tình yêu ở nơi khác, hãy tìm và hun đúc tình yêu nơi chính gia đình mình.
Tình yêu gia đình là tình yêu tự nhiên nhất, sớm sủa nhất và lành mạnh nhất. Gia đình phải là một tổ ấm tình yêu, để rồi lại trở thành nền tảng cho mọi thứ tình yêu khác. Tuy nhiên, tình yêu nào mà lại chẳng có hy sinh. Tình yêu thiếu hy sinh là tình yêu dỏm. Hy sinh thiếu tình yêu là hy sinh thừa. Tình yêu trong tổ ấm gia đình không phải là một luật trừ, cho dù gia đình gồm toàn những người rất thánh, cũng khó tránh khỏi những chuyện làm buồn lòng nhau. Vì thế, điều quan trọng không phải là tránh được hết mọi chuyện không vui, nhưng là biết lợi dụng tất cả những vui buồn để dắt nhau về cõi phúc. Nếu biết hiểu như thế, nhất là nếu biết thực hiện như thế, thì gia đình sẽ vừa là tổ ấm tình yêu, vừa là nơi đặt nền cho mọi tình thương, và cũng là lò luyện hy sinh.
Mỗi gia đình là một Giáo Hội, một Giáo Hội rút gọn. Đã là một Giáo Hội rút gọn thì mỗi gia đình phải lập lại hình ảnh Chúa Ba Ngôi: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Ba Ngôi hiệp nhất, yêu dấu và chia sẻ mọi sự với nhau thế nào, thì mỗi gia đình cũng phải đoàn kết trong tình yêu thương lẫn nhau giữa vợ chồng, cha mẹ và con cái như vậy. Mỗi người không còn ích kỷ, tìm lợi riêng cho mình, nhưng quên mình để làm sao cho những người khác trong gia đình được nâng đỡ, được hạnh phúc vui tươi trong bầu khí yêu thương đó.
Nếu mọi người trong gia đình biết sống như thế thì gia đình thật là một Giáo Hội nhỏ, sống trong tình thương, và dâng lên Thiên Chúa những của lễ thiêng liêng là những hoạt động hằng ngày của gia đình. Như thế, dù chúng ta ở đâu, gần nhà thờ hay xa nhà thờ, gia đình chúng ta vẫn là một đền thờ tốt đẹp quí báu.
Một gia đình sống theo những điều trên đây sẽ là một trường rất tốt để dạy đức tin cho con cái. Có nhiều người trong gia đình chỉ lo làm ăn và nuôi dưỡng phần tự nhiên cho con cái. Điều đó tốt thôi, nhưng nếu xao lãng không quan tâm một chút nào đến việc dạy dỗ đức tin cho con cái thì là một thiếu sót lớn. Đàng khác, có nhiều gia đình cũng quan tâm đến việc ấy nhưng lại ỷ vào người khác như các cha, các tu sĩ, các giáo lý viên, các hội đoàn. Như vậy cũng không được. Đã đến lúc những người làm cha mẹ phải ý thức: công việc đó trước tiên là công việc của mình và chính mình phải chịu trách nhiệm về đức tin của con cái trước mặt Thiên Chúa sau này, như trong Hiến Chế về Giáo Hội, Công Đồng Vaticanô II đã nói: “Những người đầu tiên phải lấy lời nói và gương sáng mà dạy dỗ đức tin cho con cái chính là cha mẹ”.
Thực vậy, gia đình là trường dạy đức tin cho con cái tốt nhất, vì không phải chỉ dạy một tuần một hai giờ mà dạy hằng ngày, luôn luôn. Ước chi các bậc cha mẹ đều bắt chước thánh Giuse và Đức Mẹ như Tin Mừng nói: “Các ngài luôn vâng giữ lời Chúa và siêng năng dự các lễ nghi như luật dạy”. Nếu các người làm cha mẹ có lòng tin vững chắc, biết truyền lại cho con cái niềm tin của mình, bằng lời dạy dỗ, bằng gương sáng trong cách ăn ở hằng ngày, thì con cái chắc chắn sẽ theo đường lối ấy. Ước chi mỗi gia đình Công giáo đều hiểu và sống như vậy. [Mục Lục]
Nếu chúng ta trồng cây nơi đất trống, thì cây đó sẽ rất dễ bị lay động, vì đành phải phó mặc cho cơn gió thổi. Nếu còn sống sót, nó sẽ bị cong queo, trơ trụi, có thể trở thành một mẫu vật nghèo nàn. Nếu muốn trồng một cây để nó được phát triển với đầy đủ tiềm năng của nó, thì bạn phải trồng nó ở một nơi mà nó có thể được che chở nhiều hơn. Bạn đừng trồng cây đó ở riêng một chỗ, mà phải trồng nó cùng với một số cây khác.
Điều quan trọng sống còn là cần phải có một khoảng cách thích hợp giữa các cây. Chúng phải gần nhau đủ, để có khả năng cung cấp chỗ trú ẩn và bảo vệ cho nhau. Tuy nhiên, chúng không được quá gần gũi nhau, đến nỗi có thể hiếp đáp nhau. Chúng phải được trồng xa nhau vừa đủ, đảm bảo sao cho mỗi cây đều có một khoảng cách thích hợp, để phát triển với đầy đủ tiềm năng của nó.
Trồng cây một mình một chỗ là không tốt. Cũng vậy, nếu chúng ta ở một mình thì cũng không tốt. Vì tính cách toàn diện, và vì sức khỏe tinh thần của mình, chúng ta cần ràng buộc tình yêu và tình bạn với người khác. Thiên Chúa không dựng nên chúng ta để ở một mình, nhưng là để sống cộng đồng. Bản thân con người chúng ta không đủ để đáp ứng cho chính mình. Chúng ta cần có người khác nữa, để trở nên những gì Thiên Chúa chờ đợi nơi chúng ta.
Đây cũng là trường hợp được ứng dụng cho các gia đình. Cây cối được trồng trong cái hố nhỏ là hình ảnh tốt về gia đình. Trong một gia đình lý tưởng, phải có sự gần gũi, đồng thời cũng phải có một khoảng cách nhất định. Cần có sự gần gũi để các phần tử có thể giúp đỡ nhau. Cần có khoảng cách để đảm bảo rằng họ không xâm phạm vào sự riêng tư của mỗi người. Mỗi phần tử cần có một giới hạn, một sự thân mật và ấm cúng mà mỗi người cần có. Tuy nhiên, cũng cần phải có một khoảng không gian, để mỗi người phát triển đúng tiềm năng của mình. Đây là một thách đố lớn: Đó là phải làm thế nào để đạt được sự gần gũi, mà không xâm phạm hoặc thống trị nhau.
Trong gia đình, chúng ta học hỏi để hình thành những mối tương quan với những người khác, một điều gì đó là quan trọng sống động đối với chúng ta. Khi không có khả năng quan hệ, đó là sự cản trở và buồn phiền lớn. Nếu không có quan hệ gần gũi, chúng ta đành phải phó mặc cho cơn gió lạnh của nỗi buồn phiền và cô đơn.
Trong cộng đồng nhỏ bé của gia đình, chúng ta học hỏi để liên đới với người khác. Ở đây, chúng ta tạo ra một căn phòng cho người khác trong đời sống của chúng ta. Ở đây, chúng ta học hỏi cách thức chia sẻ và sống có trách nhiệm với người khác.
Trong xã hội, gia đình bị đặt dưới nhiều sức ép. Nhưng không phải vì thế mà chúng ta không coi trọng giá trị của gia đình. Đó là vì chúng ta không được chuẩn bị các nguyên tắc để giữ được bầu khí êm thấm trong gia đình. Gia đình được xây dựng dựa trên những cam kết của lời hứa, sự trung thành và tự hiến. Bằng cách sống trong cộng đồng nhỏ bé của tình yêu với Đức Mẹ, thánh Giuse ở Nagiarét, Đức Giêsu có thể lớn lên trong sự khôn ngoan và nhân đức, trong lòng yêu mến của Thiên Chúa và loài người.
Trong cộng đồng nhỏ bé của gia đình, chúng ta có một nơi chốn, chúng ta có những ràng buộc, chúng ta có một căn tính, chúng ta có gốc rễ. Mặc dù gia đình nào cũng đều có khó khăn, nhưng đây không hẳn là điều xấu. Khó khăn có thể là một ân huệ. Những cây nào bị trồng trong đất xấu, thì cần phải có một bộ rễ vững chắc. Vì vậy, cần phải co sự đoàn kết với nhau hơn, để chống trả lại với những bão táp không thể tránh khỏi của cuộc đời. [Mục Lục]
Bài đọc 1 tường thuật về giới răn thứ bốn “Hãy thảo kính cha mẹ”. Thật đáng tiếc, người ta lại hay nhìn vào giới răn này theo nghĩa hẹp. Có ba yếu tố chính trong giới răn này:
Trước hết, bổn phận đầu tiên của cha mẹ là phải yêu thương và săn sóc con cái. Chúng ta nhận thấy tấm gương tốt đẹp nhất về phương diện này trong bài Tin Mừng hôm nay. Trong Tin Mừng, chúng ta nhận thấy những điều mà Đức Mẹ và thánh Giuse đã làm để bảo vệ sự an toàn cho con trẻ Giêsu. Ngay khi các ngài biết rằng đời sống con trẻ bị nguy hiểm, các ngài đã ra đi sống tha phương. Và khi cơn hiểm nguy qua đi, các ngài lại quay trở về quê hương của mình, và đã định cư ở Nagiarét. Trong nhà của mình tại Nagiarét, các ngài đã tạo ra được một môi trường mà trong đó, theo Tin Mừng thuật lại, Đức Giêsu có thể lớn lên trong sự khôn ngoan, có tầm cỡ, và trong lòng yêu mến đối với Thiên Chúa và mọi người.
Thứ đến, con cái bắt buộc phải vâng lời cha mẹ. Ở Nagiarét, Đức Giêsu là nhân vật chính đối với Đức Mẹ và thánh Giuse. Đức Mẹ là người phụ nữ của lòng tin, ngài đã yêu mến Thiên Chúa hết linh hồn, hết trí khôn. Còn thánh Giuse đã được Tin Mừng mô tả là một người công chính, nghĩa là một người luôn sống và làm việc theo luật của Thiên Chúa. Các ngài đã nuôi dưỡng, dạy dỗ và uốn nắn con trẻ Giêsu nên người.
Tại Nagiarét, Đức Giêsu có thể âm thầm lớn lên trong sự che chở của cha mẹ Người. 30 năm đầu đời của Đức Giêsu rất quan trọng đối với Người. Trong suốt 30 năm ấy, Người đã lớn lên, trưởng thành và đã chín mùi. Trong suốt những yếu tố ảnh hưởng trên chúng ta, gia đình là yếu tố gây ảnh hưởng nhiều nhất. Những ảnh hưởng của gia đình tồn tại nơi chúng ta suốt đời.
Thứ ba, những người con đã trưởng thành bắt buộc phải đảm bảo cho cha mẹ khi về già, có thể được sống thoải mái, xứng đáng với nhân phẩm. Đây là trọng tâm của bài đọc 1.
Điều này liên quan đặc biệt đến thời đại chúng ta, khi những người lớn tuổi có khuynh hướng hay bị đẩy ra ngoài lề xã hội. Với sức mạnh của mình, chúng ta dễ dàng quên rằng họ là những người yếu đuối, và có lẽ hơi bị lão suy rồi. Có một câu tục ngữ “Một mẹ có thể nuôi được 10 con, nhưng 10 con không thể nuôi được một mẹ”. Dưới nhan Thiên Chúa, chúng ta mắc nợ cha mẹ chúng ta đủ thứ. Tác giả sách Giảng Viên đã quả quyết rằng lòng tận tụy của con cái đối với cha mẹ đặc biệt làm hài lòng Thiên Chúa, Người đón nhận tấm lòng đó như là một hành động chuộc lại lỗi lầm.
Gia đình Thánh Gia là mẫu mực. Khi Đức Giêsu sắp trút hơi thở cuối cùng trên thánh giá. Người đã nghĩ đến Mẹ Người, và đã trao phó Mẹ Người cho môn đệ Gioan chăm sóc. (Theo truyền thống, lúc đó thánh Giuse qua đời rồi).
Ngoài ra, việc quan tâm chăm sóc người thân trong họ hàng cũng không phải là điều dễ. Khi hoàn cảnh bắt buộc chúng ta phải nuôi dưỡng những người đó, thì quả thật là khó khăn. Nhất là đối với những người vốn có tính hay yêu sách. Mặc dù thế, khi chúng ta cư xử với họ bằng lòng từ tâm, là chúng ta đã làm một công việc thánh thiện nhất. Cũng như khi nhân danh Thiên Chúa, chúng ta cho người anh em một ly nước, đó là chúng ta đã phục vụ chính Thiên Chúa vậy. [Mục Lục]
Một bà mẹ trẻ ngồi ôm cậu con trai 4 tuổi trong lòng, bà nói với con là nó sắp có em bé. Bà mẹ giải thích cho con mình rằng nó có thể giúp săn sóc cho em bằng cách cầm chai sữa, đi lấy tã cho em khi cần, và đẩy xe cho em… Sau khi nghe mẹ nói một hơi, chú bé tuột xuống khỏi lòng mẹ, đứng nhìn vào mẹ và nói một cách nghiêm nghị:
– Vậy là bao nhiêu việc con phải làm hết, còn mommy không phải làm gì sao?
Gia đình là cộng đoàn tình yêu trong đó mỗi phần tử đều có vai trò phải chu toàn, đóng góp. Vợ chồng phải biết kính trọng yêu thương nhau. Cha mẹ có trách nhiệm dưỡng nuôi và dạy dỗ con cái nên người tốt, giúp ích cho xã hội. Con cái phải vâng lời, thảo kính cha mẹ. Đó là trật tự Thiên Chúa đã xếp đặt để mỗi người được sinh ra và lớn lên trong một bầu khí tràn đầy tình thương. Tuy nhiên trật tự đó đã bị con người ngày nay làm hư hại nặng nề vì cuộc sống buông thả theo tính dục. Con cái sinh ra không có gia đình yêu thương bao bọc, để rồi lớn lên trong sự hờ hững, hất hủi, đưa đến kết quả mang tâm trạng nổi loạn, bất cần đời, hận thù, giết hại người khác.
Gia đình là viên gạch xây dựng xã hội. Khi viên gạch bị hư hỏng, mục nát thì xã hội cũng bị xụp đổ, điêu tàn. Muốn gây dựng lại xã hội, người ta phải gầy dựng lại gia đình. Muốn tái lập gia đình, con người phải đặt Thiên Chúa vào địa vị tối cao nơi gia đình. Đó là bài học con người ngày nay cần học nơi Thánh Gia.
Bài Phúc Âm hôm nay diễn tả một hình ảnh đẹp của gia đình: Thánh Giuse và Đức Mẹ bế Chúa Giêsu hài nhi vào Đền thờ để dâng của lễ, phụng thờ Thiên Chúa. Tại Đền Thờ, Đức Maria đã được mạc khải rằng tương lai và sứ mạng của Mẹ gắn liền với Chúa Kitô trong những khổ đau đem lại ơn cứu chuộc cho nhân loại. Thánh gia đã đến thờ phượng Thiên Chúa như một gia đình. Từ đó Thiên Chúa đã mạc khải cho mỗi người nhận ra vai trò của mình nơi gia đình và trong xã hội. Muốn cho gia đình được đời sống êm ấm, hạnh phúc, chúng ta phải đặt tinh thần thờ phượng Thiên Chúa lên trên hết. Tinh thần đó thể hiện qua việc tham dự thánh lễ Chúa Nhật. Gia đình cùng đi dự lễ, cùng ngồi với nhau. Cha mẹ dùng dịp này để giáo dục cho con cái về ý nghĩa việc dự lễ, ý nghĩa các bài đọc, lời linh mục giảng. Đứa trẻ nào cũng có vài cảm nghĩ nào đó mỗi khi dự lễ, về nhà thờ, về ca đoàn, về linh mục, về những nghi thức phụng vụ… Dò hỏi các em về những cảm nghĩ đó để hiểu biết tâm tư các em, lợi dụng cơ hội đó để dạy cho các em biết tham dự thánh lễ cách có ý nghĩa hơn. Ngoài ra gia đình nên có giờ đọc kinh tối mỗi ngày sao cho thích hợp với tuổi trẻ: một vài chục kinh Mân Côi, một đoạn Kinh Thánh với vài lời suy niệm, một lời nguyện tự phát dâng lên Chúa… Điều đó đem lại nhiều lợi ích cho người trẻ hơn những tràng kinh vô cùng, không Amen. [Mục Lục]
Cách đây ít lâu, tạp chí Reader’s Digest có đăng một bài báo tựa đề “thăm dò gia đình”. Bài này gồm 12 câu hỏi dành cho các bậc cha mẹ. Một trong những câu hỏi đó như sau: “Hôm lễ Giáng Sinh, trong bữa ăn tối có mời khách, bạn có cảm thấy thoải mái, dễ dàng khi bạn yêu cầu bất cứ một đứa con nào của bạn đọc kinh không?”. Câu hỏi này khiến ta phải lưu ý tới một trong những vấn đề chính yếu phải quan tâm của mọi gia đình đó là đời sống cầu nguyện trong gia đình.
Đời sống cầu nguyện trong gia đình phải được thực hiện dưới ba hình thức khác nhau:
Trước hết là hình thức cầu nguyện riêng tư, cá nhân. Mỗi người trong gia đình cầu nguyện riêng với Thiên Chúa. Chẳng hạn người cha cầu nguyện trên đường đi tới sở làm việc. Người mẹ cầu nguyện khi chăm sóc đứa con sơ sinh bị đau. Các con trong nhà cầu nguyện trước khi đi ngủ. Có nhiều cách cầu nguyện riêng một mình.Có thể cầu nguyện bằng cách đọc kinh đã làm sẵn, chẳng hạn như kinh Lạy Cha, vừa đọc vừa suy gẫm những lời ta đọc. Cũng có thể cầu nguyện bằng Thánh Kinh bằng cách đọc một đoạn ngắn rồi suy gẫm những tư tưởng trong đó. Chúng ta cũng có thể cầu nguyện bằng chính những lời lẽ của mình, tự do nói với Thiên Chúa những tâm tình từ trái tim mình.
Chúa Giêsu thường cầu nguyện một mình. Chẳng hạn Ngài cầu nguyện khi để Gioan tẩy Gỉa rửa tội cho mình tại dòng sông Giođan. Ngài cầu nguyện khi thi hành tác vụ rao giảng Tin Mừng của Ngài. Ngài hay cầu nguyện ở trong các khu vườn.
Một trong những món qùa qúi báu nhất mà cha mẹ có thể ban tặng cho con cái là làm cho chúng biết yêu thích và thường thức những giây phút cầu nguyện một mình. Không có cách nào thực hiện điều đó tốt hơn là dùng chính những gương sáng của mình.
Dorothy Day là một phụ nữ được báo New York Times gọi là “người có nhiều ảnh hưởng nhất trong lịch sử công giáo Hoa kỳ”, bà nói rằng một trong những hấp lực đầu tiên lôi kéo bà đến với đạo công giáo là khi còn nhỏ bà được nhìn thấy một người công giáo đứng tuổi đang cầu nguyện. Bà viết: “hôm đó vào khoảng 10 giờ sáng, tôi đến nhà Kathryn để thăm và để rủ cô ấy đi chơi. Lúc đó không có ai ngoài hành lang hay trong nhà bếp cả…Tôi bước đại vào nhà thì thấy bà Barrett đang qùi đọc kinh ở phòng ngoài. Bà quay lại bảo tôi rằng Kathryn và bọn trẻ đã đi ra cửa hàng mua đồ, rồi bà lại tiếp tục cầu nguyện. Thế là tôi cảm thấy có một niềm yêu thương ấm áp nẩy sinh trong tâm hồn tôi đối với bà Barrett”. Đó là một cảnh tượng thật đẹp, và tôi chắc chắn rằng nhiều người trong chúng ta cũng có thể kể những thí dụ tương tự về những người công giáo đã lớn tuổi đang cầu nguyện như thế.
Hình thức thứ hai của việc cầu nguyện trong gia đình là cầu nguyện chung: mọi người trong gia đình cầu nguyện chung với nhau. Chẳng hạn cầu nguyện lúc mọi người tề tựu chung quanh bàn ăn để dùng bữa hay lúc chuẩn bị đi ngủ, hay vào những lúc thuận tiện khác. Đức Giêsu thường cầu nguyện chung với gia đình Ngài. Người Do Thái đặt rất nặng việc cầu nguyện chung trong gia đình, đặc biệt vào các bữa cơm gia đình. Người Do Thái có một câu tục ngữ cổ nói rằng ai ăn mà không tạ ơn Thiên Chúa thì đó là người ăn cắp của Thiên Chúa. Đức Giêsu thường cầu nguyện trong các bữa ăn. Chẳng hạn Người cầu nguyện khi cho đám dân chúng đang đói được ăn no trên sườn đồi (Lc.9,16). Ngài cầu nguyện trong bữa tiệc ly (Lc.22, 19). Ngài cầu nguyện khi ăn chung với hai môn đệ làng Emmau (Lc 24,30).
Một lần nữa, ta có thể nói rằng một trong những món qùa qúi báu nhất mà cha mẹ có thể ban tặng cho con cái là làm cho chúng biết yêu thích và thưởng thức việc cầu nguyện chung cho gia đình. Trong tiểu sử của tướng Douglas Mac Arthur, Couttney Whitney có trưng dẫn một câu nói của ông: “Tôi là một quân nhân chuyên nghiệp, tôi hãnh diện về điều ấy. Nhưng tôi còn hãnh diện hơn, hãnh diện hơn rất nhiều vì được làm một người cha…và niềm hy vọng của tôi là: Khi tôi đã về bên kia thế giới, thì con tôi vẫn nhớ đến tôi không phải với những hình ảnh ở trận chiến mà là những hình ảnh ở nhà tôi, khi tôi cùng đọc với nó bài kinh thường đọc hàng ngày: “Lạy Cha chúng con ở trên trời…”
Cuối cùng là hình thức cầu nguyện với cộng đoàn, trong đó gia đình cầu nguyện với những gia đình khác, vào các ngày Chúa nhật. Dĩ nhiên không phải lúc nào cũng tổ chức được những buổi cầu nguyện chung cho nhiều gia đình như thế. Nhưng nếu các gia đình đều cố gắng thực hiện những điều đó, thì vẫn có thể tổ chức được dưới hình thức này hay hình thức khác. Chẳng hạn các gia đình công giáo ở gần nhau, trong cùng một khu vực, một xóm hay một làng, có thể cùng tụ họp ở một gia đình nào đó, luân phiên nhau nay nhà này mai nhà khác, để cùng cầu nguyện chung với nhau hằng ngày hay hằng tuần. Nhờ vậy các gia đình trở nên gần gũi nhau hơn, sự gắn bó và đoàn kết các gia đình trở nên chặt chẽ hơn. Thông thường hơn cả là các gia đình tụ họp chung tại nhà thờ họ đạo vào những giờ giấc nhất định trong ngày, chẳng hạn như vào các buổi tối, như một sinh hoạt bình thường của họ đạo.
Đức Giêsu thường cầu nguyện theo kiểu này. Ngài cùng cầu nguyện chung với các gia đình khác. Thánh Luca có viết trong Tin Mừng của ngài: “Đức Giêsu trở về Nazaret nơi Ngài sinh trưởng, hôm đó là ngày Sabat, Ngài đến hội đường (để đọc Kinh Thánh và cầu nguyện ) như thường lệ (Lc. 4.16)
Lễ Thánh Gia hôm nay là một dịp để chúng ta tự vấn về chất lượng cầu nguyện trong gia đình của mình. Nói cụ thể hơn là chúng ta – cha mẹ, con trai, con gái- đã góp phần vào đời sống cầu nguyện trong gia đình như thế nào. Chúng ta hãy nhớ lại cách mà bài “thăm dò về gia đình” đặt vấn đề đối với các bậc cha mẹ: “hôm lễ Giáng Sinh, trong bữa ăn tối có mời khách, bạn có cảm thấy thoải mái, dễ dàng, khi bạn yêu cầu bất kỳ đứa con nào của bạn đọc kinh không ?” Nếu chúng ta trả lời không (nghĩa là không thoải mái dễ dàng), thì những bài đọc Thánh Kinh hôm nay là một sứ điệp quan trọng đối với chúng ta.
Để kết thúc, chúng ta hãy cầu nguyện bằng một bài kinh. Tướng Douglas Mac Arthur viết bài kinh này khi ở Philippines trong những ngày mở đầu cuộc chiến tranh tại Thái Bình Dương. Mặc dù đó là bài kinh ông cầu nguyện cho các con trai ông, nhưng nó cũng thích hợp cho các thiếu nữ. Xin mọi người hãy im lặng và cùng cầu nguyện với tôi:
“Lạy Chúa, xin hãy ban cho đứa con trai của con được đủ sức mạnh để biết được lúc nào nó yếu đuối, đủ dũng cảm để đối diện với chính mình khi nó cảm thấy sợ hãi…Xin đừng để cho đứa con trai của con chỉ biết ước muốn mà không dám hành động…Xin Chúa đừng để nó đi vào con đường thích dễ dãi tiện nghi, nhưng hãy hướng dẫn nó đi vào con đường bắt buộc nó phải cố gắng vượt qua những khó khăn thử thách.
“Xin hãy tập cho nó đứng vững trong bão tố, nhưng lại biết thông cảm với những ai gục ngã.
“Xin hãy ban cho đứa con trai của con có một trái tim trong sạch, có một mục đích cao cả, biết tự chủ lấy mình trước khi muốn làm chủ người khác, biết lo lắng cho tương lai mà không bao giờ quên qúa khứ.
“Và khi Chúa đã ban cho nó tất cả những điều ấy, xin Chúa hãy ban cho nó có đủ tính khôi hài để nó có thể luôn luôn nghiêm nghị nhưng không bao giờ nghiêm nghị một cách qúa đáng.
“Như vậy, là cha nó, con dám tự nhủ rằng con đã không sống một cách vô ích”. [Mục Lục]
Một cậu bé đón cha mình đi làm về và hỏi: “Bố ơi! bố đi làm được bao nhiêu tiền một giờ?”. Ông bố rất ngạc nhiên và bảo: “Này con, ngay cả mẹ của con cũng chẳng biết, đừng quấy rầy bố vì bố đang mệt.” Cậu bé lại hỏi: “Bố cứ cho con biết, lương của bố mỗi giờ được bao nhiêu tiền?” Cuối cùng thì ông bố bảo rằng: “Mỗi giờ bố được hai mươi đồng”. Cậu bé liền hỏi: “Vậy bố cho con mượn mười đồng”. Ông bố tỏ vẻ giận và mắng con: “Thì ra đấy là lý do con muốn biết tiền lương của bố? Bây giờ đi ngủ đi và đừng quấy rầy bố nữa”.
Đêm hôm ấy, ông bố nghĩ lại những điều đã nói với con mình và cảm thấy hối hận. Ông cho rằng có thể con mình đang cần tiền để mua món gì mà nó đang cần. Ông sang phòng của con mình và hỏi: “Con đã ngủ chưa?” Con ông đáp: “Con chưa ngủ”. Ông bố đưa tiền và bảo: “Đây là tiền con hỏi xin lúc nãy” Nó vui vẻ cám ơn bố, rồi lấy thêm tiền trong gối ra và nói: “ Con đã có đủ rồi! hai mươi đồng. Bây giờ bố bán cho con một giờ của bố.”
Bài phúc âm hôm nay nhắn nhủ ông bố kể trên và tất cả chúng ta là hãy dành cho gia đình mình nhiều thì giờ hơn nữa.
Thánh Luca đã cho chúng ta thấy Đức Giêsu ở tuổi mười hai, lứa tuổi được xem là trưởng thành và mọi thiếu niên Do Thái ở tuổi ấy phải tuân giữ luật Do Thái. Đây cũng là lúc thiếu niên Do Thái được chúc mừng để trở thành người lớn. Kể từ đấy, họ phải tuân giữ luật lệ và phải tham dự hành hương hằng năm tại đền thánh Giêrusalem. Thời ấy, có những thanh niên thì đánh dấu ngày này bằng cách đi chơi hoặc làm những điều không đúng với điều mà luật Do Thái đòi hỏi. Chúng ta thường cảm thấy con của mình đã lớn, khi chúng đi chơi với bạn bè mà không xin phép. Như chúng ta đã biết, Đức Giêsu cũng vậy. Để đánh dấu ngày đến tuổi trưởng thành theo luật Do Thái, Ngài đã tham dự lớp học kinh thánh tại đền thờ mà không báo cho cha mẹ mình biết. Khi cha mẹ tìm được Người sau hai ngày tìm kiếm khắp nơi, Người chỉ trả lời rằng “Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?” (Luca 2:49). Ngay cả thánh gia đôi khi cũng có những lúc căng thẳng và những hiểu lầm.
Điều làm cho chúng ta thắc mắc là trong đoạn cuối cuả phúc âm hôm nay “Sau đó, Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Nazaret và hằng vâng phục các ngài.” (Luca 2:51). Thiếu niên Giêsu mười hai tuổi, đã biết rằng sứ mạng của mình là ở trong nhà của Cha mình và thực thi những sứ mạng ấy. Trong thời gian ngắn ngủi tại Giêrusalem, Người đã chứng tỏ khả năng và sự hiểu biết của Người, vì “Ai nghe cậu nói cũng ngạc nhiên về trí thông minh và những lời đối đáp của cậu” (Luca 2:47). 1 Điều làm cho chúng ta phải suy nghĩ là: Nếu Đức Giêsu đã được mười hai tuổi, đã sẵn sàng và bằng chứng là có khả năng để bắt đầu sứ vụ giảng dạy công khai. Vậy tại sao Người lại đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Nazaret và sống ẩn dật mười tám năm trong căn nhà nghèo nàn của người thợ mộc, và chỉ bắt đầu sứ vụ giảng dạy công khai ở tuổi ba mươi? Vậy mười tám năm ấy là vô vị và không có ích lợi gì chăng? Chắc chắn làcó lợi ích! Điều chúng ta nên tìm hiểu là cuộc sống ẩn dật cuả Đức Giêsu tại Nazaret là một phần trong sứ vụ của cuộc sống công khai của Người. Phúc âm nhắc chúng ta rằng: “Còn Đức Giêsu ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta” (Luca 2:52). Khi chúng ta suy niệm về điểm này, thì cứ một năm Người giảng đạo thì mười năm Người ở với gia đình. Từ đấy chúng ta sẽ hiểu tầm quan trọng và sự ưu tiên Người đã dành cho đời sống gia đình như thế nào.
Đời sống của chúng ta được chia thành hai phần: gia đình và công việc. Hai phần này thông thường thì phải hài hòa nhưng đôi khi lại đối chọi nhau và gây ra căng thẳng. Đức Giêsu đã hóa giải sự căng thẳng ấy bằng cách dành sự ưu tiên cho đời sống gia đình. Còn chúng ta thì thường hay cố gắng giải quyết mối căng thẳng ấy bằng cách dành sự ưu tiên cho công việc của mình, và để cho đời sống gia đình chịu tổn thương. Bà Rose Sands viết về người đàn ông bất hạnh, người mà chỉ nghĩ rằng mình có thể chứng minh tình thương của mình đối gia đình là phải làm việc hết sức mình “Để chứng tỏ tình yêu đối với vợ mình, ông ta bơi qua khúc sông sâu nhất, vượt vùng sa-mạc rộng nhất và leo ngọn núi cao nhất. Vợ của ông đã lìa bỏ ông, vì ông ta chẳng bao giờ có mặt ở nhà”.
Hôm nay, nhân dịp chúng ta mừng kính lễ Thánh Gia của thánh Giuse, Đức Maria và Chúa Giêsu, chúng ta hãy ôn lại và nhắc nhở chính chúng ta rằng: hãy đặt giá trị của đời sống gia đình lên trên công việc của mình, kể cả những việc quan trọng như việc bảo tồn thế giới này. [Mục Lục]
Mái ấm gia đình là ngôi trường đầu tiên và là ngôi trường quan trọng nhất trong đời. Gia đình không những đã nuôi dưỡng ta mà còn cho ta vào đời. Qua mái trường gia đình ta được nuôi dưỡng bằng tình thương, nghe giọng nói ngọt ngào và thưởng thức những ca khúc êm dịu ru con mắt lim dim. Phong tục tập quán, truyền thống văn hoá, chuyện cổ tích dân tộc đều được mái ấm gia đình truyền thụ. Cha mẹ chúng ta học những phong tục đó từ cha ông và truyền lại cho chúng ta và rồi chúng ta lại truyền đạt cái hay đó cho thế hệ kế tiếp. Mái trường gia đình là nơi đào tạo ta trở thành con người xã hội tương lai. Mái trường gia đình cách nào đó gieo vào lòng ta mầm mống của ước mơ và hy vọng tương lai. Nếu gieo những hạt giống tốt ta sẽ trở thành người tốt, người hữu dụng. Nếu gieo cỏ dại ta sẽ sống với cỏ dại, dần dần kéo bè, kết phái và sẽ xa dần những tấm lòng chân tình. Quanh ta toàn nịnh bợ hay lời nói ngon ngọt đầu môi.
Những gì ta học ở gia đình ảnh hưởng rất nhiều đến con người tương lai và niềm tin gia đình gieo vào lòng ta lúc ấu thơ sẽ ảnh hưởng đến cách xử thế sau này. Nếu gia đình tạo cho ta một nền tảng đức tin vững chắc ta sẽ trở thành chứng nhân Kitô tốt lành. Không những ta có một đời sống tốt lành mà còn hiểu rõ í nghĩa và cùng đích cuộc đời. Cùng đích của niềm tin Kitô là giúp chúng ta sống tốt lành trong xã hội trước khi bước vào cuộc sống vĩnh cửu trên quê trời vì thế mái ấm gia đình cách nào đó vạch cho ta một con đường tiến về quê hương vĩnh cửu. Con đường đó được chỉ đạo bằng Lời Hằng Sống đó là Lời Chúa và giáo huấn của Ngài. Ngoài Lời Chúa và giáo huấn của Ngài ra thế giới này không thể bảo đảm cho hạnh phúc thật. Thế giới chỉ có thể cho hạnh phúc nhất thời bởi chính sự vật của thế giới cũng chỉ là nhất thời nên chúng chỉ có khả năng làm điều đó.
Để giáo huấn của Đức Kitô hướng dẫn cuộc đời chúng ta học biết đón nhận tình yêu Chúa ban, đồng thời học chia sẻ tình yêu đó cho tha nhân. Chính việc đón nhận và chia sẻ tình yêu giúp ta tiến trên con đường lành thánh. Mừng kính lễ Thánh Gia Thất chúng ta mong học được các nhân đức từ gia đình Thánh Gia. Một gia đình sống trong tình yêu Chúa và chia sẻ tình yêu đó là bằng chứng cho thấy điều Chúa muốn ta thực hiện thuộc khả năng của mọi người. Gia đình thánh là gia đình sống không cho chính mình nhưng chung sống với tha nhân và trên hết mọi sự sống cho Thiên Chúa và thực hiện í Chúa trong cuộc sống hàng ngày. Bà Maria từ bỏ í riêng sống độc thân để trở thành Mẹ Thiên Chúa. Ông Giuse định từ bỏ mà Maria cách kín đáo và rồi từ bỏ í riêng đón nhận í Chúa làm cha nuôi Đấng Cứu Thế. Đức Kitô trong cuộc đời rao giảng công khai tuyên bố:
Ta không đến để làm theo í Ta nhưng theo í của Cha Ta Gn 6,38.
Một nhân đức rất quan trọng khác đó là khiêm nhường mà chúng ta cần học theo, bắt chước. Gia đình Thánh Gia nhận biết tất cả những gì chúng ta có trong tay đều không phải của riêng ta mà là của Chúa ban cho, kể cả sức khoẻ và sự sống đang có trong tay cũng đều do Chúa ban vì thế Chúa có toàn quyền xử dụng những gì thuộc về Chúa, hành xử theo í Chúa mà í Chúa chính là mang tình yêu của Ngài đến cho mọi người. Xem thế việc thực thi í Chúa không gì khác hơn là đối xử bình đẳng và yêu thương mọi người. Gia đình Thánh Gia thể hiện điều này qua việc Đức Trinh Nữ xin vâng, thánh Giuse vâng phục hướng dẫn của Thánh Thần và Đức Kitô nghiêng vai vác thập giá trên đường lên núi thánh.
Lễ Thánh Gia chúng ta cảm tạ Chúa cho cha mẹ chúng ta đã hy sinh cuộc sống riêng mình đồng thời rèn luyện đức tin của ta trong tình yêu Chúa.
Chúc Mừng Giáng Sinh an bình và Năm Mới phúc lộc đến quí vị. [Mục Lục]
Có người cho rằng Thánh gia là một gia đình thánh. Còn chúng ta là người phàm, yếu đuối, làm sao bắt chước cho được. Hơn nữa, các Ngài sống trong bầu khí bình lặng, êm đềm, ít phải cạnh tranh và chụp dựt, ít bị những ảnh hưởng xấu như thời buổi hiện đại. Quả thật, Thánh gia là một gia đình thánh, nhưng sự thánh thiện ấy không miễn chuẩn cho các Ngài những khó khăn vất vả, những cố gắng bươm chải. Cứ đọc lại Tin Mừng thời thơ ấu của Chúa Giêsu là chúng ta sẽ thấy: Có những thức thách khi Giuse thấy Mẹ Maria bỗng dưng có thai mà ngài không biết. Có những vất vả của hành trình từ Nagiarét lên Giêrusalem để kiểm tra dân số đang lúc Mẹ Maria sắp nở nhuỵ khai hoa. Có những buồn tủi khi không còn chỗ cho Mẹ Maria trong quán trọ, khiến Con Thiên Chúa phải sinh ra nơi máng cỏ khó nghèo. Và chắc hẳn Thánh gia đã thấu hiểu thế nào là thân phận lưu lạc nơi đất khách quê người bên Ai Cập để trốn thoát âm mưu hãm hại của bạo vương Hêrôđê. Trước những thử thách ấy, Thánh gia có hai phương thức để giải quyết.
Trước hết là tình yêu. Thực vậy, ngày nay hơn bao giờ hết, người ta càng khám phá ra tầm quan trọng của gia đình trong đời sống xã hội: gia đình là cái nôi của con người, vì chính ở đó con người được sinh ra. Là mái trường đầu tiên của con người, gia đình giữ một vai trò đặc biệt trong sự hình thành cá tính và nhân phẩm của con người. Nhưng cũng chính ngày nay, người ta phải chua chát thừa nhận rằng đang có những khủng hoảng trầm trọng làm lung lay tận nền tảng gia đình. Chính trong bối cảnh ảm đạm đó, hình ảnh Thánh gia vụt sáng lên như ánh sao chỉ đường. Vâng. Thánh gia mời gọi các gia đình hãy biết yêu thương và sống cho nhau. Nước chảy không ngược dòng, cây không sống cho chính mình nhưng sống cho quả. Cũng vậy, cha mẹ sống cho con cái. Thánh Giuse với tư cách là gia trưởng đã miệt mài làm việc để nuôi sống gia đình, ngài ghi dấu ấn lao động trên cuộc đời của người con, khiến sau này Chúa Giêsu khi rao giảng Tin Mừng, người ta đã phải tự hỏi: Ông ấy không phải là con bác thợ mộc và Maria sao? Còn Mẹ Maria với tư cách nội trợ, Mẹ đã tập cho Chúa Giêsu cầu nguyện, giúp cho con biết quan sát thế giới chung quanh. Phải chăng những lời dạy dỗ của Mẹ Maria vẫn tiềm ẩn trong cung cách rao giảng của Chúa Giêsu sau này khi Ngài nói: Nước trời giống như men, như muối… Và cậu bé Giêsu dưới mái nhà Nagiarét đã chia sẻ mọi cảnh ngộ của gia đình, đã sống đạo làm con đối với cha mẹ trong tinh thần yêu thương và vâng phục. Như thế, mẫu gương yêu thương và sống cho nhau đã được mọi thành viên trong Thánh gia thực hiện. Cha mẹ không chỉ nuôi con bằng cơm bánh vật chất, nhưng còn dạy dỗ, làm gương sáng cho con, còn người con đáp trả bằng tình hiếu thảo và vâng phục. Phải chăng chính sự yêu thương và ân cần dưỡng dục của cha mẹ đã ghi dấu ấn sâu xa trong tâm hồn Đức Giáo Hoàng Gioan 23, nên trong ngày sinh nhật thứ 50 của mình, ngài đã viết thư cho cha mẹ như sau: Thưa ba má, hôm nay con được 50 tuổi. Chúa thương ban cho con nhiều chức vụ trong Hội Thánh. Con đã đi nhiều nơi, đã học nhiều sách, nhưng không trường nào dạy dỗ con, làm ích cho con như hồi con được ngồi bên ba má.
Tiếp đến, phương thức thứ hai đó là ý Chúa. Thực vậy, yêu thương và sống cho nhau vẫn chưa đủ, đối với người Kitô hữu, tình yêu thương còn phải được định hướng bằng thánh ý Chúa. Thiếu sự định hướng này, lắm khi tình thương chỉ còn là tiếng loa dội lại của lòng ích kỷ, hoặc biến thành một thứ tình cảm mù quáng sai lầm. Không ít bậc cha mẹ, theo như kinh nghiệm cho thấy, đã giết chết tuổi thanh xuân của con cái qua sự cưng chiều quá đáng của mình. Cho nên cha mẹ thương con mà phải nhận ra rằng yêu thương không có nghĩa là chiếm đoạt, giữ rịt cho riêng mình. Mẹ Maria sẵn lòng trao Hài nhi Giêsu cho ông cụ Simêon, cũng như sau này, Mẹ dâng con trên đỉnh cao thập giá.Và Mẹ ý Chúa là trên hết. Mẹ Maria và thánh Giuse đã vâng theo ý Thiên Chúa ở mọi nơi và trong mọi lúc. Một khi đã lấy ý Chúa làm ngọn đèn hải đăng hướng dẫn thuyền đời, thì mái ấm của chúng ta chắc chắn sẽ vượt qua được những sóng gió của đại dương cuộc đời. [Mục Lục]
Ở Chicago, khi trời vừa lập đông, từng đàn ngỗng lũ lượt kéo nhau bay hàng ngàn dặm về phương Nam đi tìm nắng ấm. Chúng kêu gọi nhau xôn xao. Có những con lạc bầy vừa bay vừa kêu: “Quéc! Quéc! Quéc!” Khiến kẻ tha phương cũng phải chạnh lòng buồn theo vì nhớ mái ấm gia đình! Các nhà khoa học nghiên cứu cuộc di cư hằng năm đi tìm nắng ấm của loài ngỗng đã đưa ra sáu điểm nhận xét giúp ta suy nghĩ về đời sống gia đình nhân dịp lễ Thánh Gia Thất hôm nay:
- Chúng bay với nhau theo hình chữ vê ngược. Mỗi con đều vỗ cánh rất nhịp nhàng, êm ái. Một hàng chữ vê ngược bay chung với nhau như vậy sẽ tạo thêm được 17 phần trăm sức mạnh hơn là từng con bay riêng rẽ.
Đúng là “Hợp quần gây sức mạnh”. Tất cả mọi người trong một gia đình hay cộng đoàn hợp tác với nhau làm việc sẽ nhanh hơn và dễ hơn, vì họ cùng thúc đẩy và nâng nhau lên. “Niềm vui góp lại, niềm vui lớn. Nỗi lo chia sẻ, nỗi lo vơi!”
- Khi có con nào bị rơi ra khỏi hàng ngũ, nó phải tìm cách mau chóng trở về hàng ngay để có sức mạnh nâng đỡ của cả bầy. Nếu không nó phải bay cô đơn một mình!
Bước ra khỏi gia đình hay cộng đoàn, ta sẽ cảm thấy bơ vơ lạc lõng, mất đi một điểm tựa nâng đỡ lớn lao. Khi phải một thân một mình chống chọi giữa đời, ta mới cảm thấy sự quý giá của mái ấm gia đình. Khi mồ côi ta mới thấy giá trị của tình phụ mẫu.
- Khi con ngỗng dẫn đàn ở chính giữa mệt mỏi, nó sẽ trở xuống hàng phía dưới, con khác sẽ thay phiên lên dẫn đầu.
Thật là bất công khi trong gia đình hay cộng đoàn, có những người phải làm việc quá sức đang khi đa số những người khác lại nhàn hạ. Có nhiều gia đình cha mẹ phải làm việc đầu tắt mặt tối, trong khi con cái chơi bời lêu lổng suốt ngày. Theo thống kê, chỉ có 20/o số người đứng ra làm việc, nhưng phải đảm đương tới 80/o công việc của một tập thể, hay cộng đoàn!
- Những con ngỗng vừa bay vừa kêu “Quéc! Quéc!” Am thanh vang dội trong bầu trời. Cuộc hành trình dài muôn ngàn dặm. Cứ thẳng cánh mà bay. Những con bay phía sau kêu lên để khích lệ những con phía trước phải cố gắng giữ cho đúng tốc độ.
Trong gia đình hay cộng đoàn thường có sự ghen tương, dèm pha lẫn nhau hơn là khích lệ, cổ võ, và khen ngợi những ưu điểm của nhau! Trong cuốn “Người Trung Quốc Xấu Xí” của Bá Dương, bản dịch của Nguyễn Hồi Thủ, tác giả đả kích tính ích kỷ, ghen tương, đấu đá lẫn nhau của người Trung Hoa bằng một kinh nghiệm như sau: “Ví dụ tôi đến thăm anh, thấy anh nhà cao cửa rộng, học vấn uyên bác, trong lòng tôi kính phục, hâm mộ anh. Trên đường về đáng lẽ tôi nghĩ phải cố gắng phấn đấu, làm việc, học hành để có thể được như anh. Đằng này lúc ra khỏi nhà anh tôi lại bảo: Ở nhà đẹp thế! Không biết ăn cắp hay ăn cướp ở đâu ra lắm tiền! Cầu trời cho ngày mai có đám cháy thiêu rụi cái nhà nó đi cho rồi!” Tác giả dẫn chứng sự mất đoàn kết của người Trung Hoa bằng câu nói mỉa mai: “Một Hoà Thượng gánh nước uống. Hai Hoà Thượng khiêng nước uống. Ba Hoà thượng không có nước uống!”
- Khi nào dừng cánh nghỉ ngơi, kiếm ăn trên đồng cỏ, không bao giờ tất cả mọi con ngỗng đều cúi đầu xuống ăn cùng một lượt! Luôn luôn có 4 hay 5 con canh chừng trong khi những con khác ăn. Chờ đợi cho những con khác ngẩng đầu lên, lúc đó chúng mới cúi xuống.
Trong gia đình hay cộng đoàn, chúng ta phải biết tỉnh thức, canh chừng và bảo vệ nhau tránh khỏi những nguy hiểm của ma thù. Đừng vì say mê hưởng thụ vật chất mà quên đi những kẻ thù tinh thần rình rập trên hành trình tiến về quê trời.
- Khi một con ngỗng bị bệnh hay bị bắn thương tích rơi xuống đất, sẽ có 2 con khác bay theo xuống đất để giúp đỡ và bảo vệ. Chúng ở lại cho đến khi con bị thương có thể bay được, hay phải chết, chúng mới bay đi nhập vào một hàng khác để bắt kịp bầy cũ của mình.
Tình nghĩa gắn bó, liên kết mọi người sống chết với nhau trong gia đình. Thường thường trước khi nhắm mắt xuôi tay, cha mẹ, vợ chồng, anh chị em, đều muốn có nhau trong giờ phút cuối. Ai cũng muốn ra đi trong tình thương mến của gia đình. Không ai muốn chết trong cô đơn buồn tủi. [Mục Lục]
Trong bài Phúc âm hôm nay, thánh Luca kể lại việc Đức Mẹ Maria và thánh Giuse đưa Hài Nhi Giêsu lên đền thờ “để hiến dâng Ngài cho Thiên Chúa… Và khi hai ông bà hoàn tất mọi điều theo luật Chúa, thì trở lại xứ Galilêa, về thành mình là Nagiarét. Và con trẻ lớn lên, thêm mạnh mẽ, đầy khôn ngoan, và ơn nghĩa Thiên Chúa ở cùng Người.
Thánh Phaolô còn diễn tả chi tiết hơn những đặc tính của gia đình Thánh Gia ở Nagiarét, nơi Chúa Giêsu đã sinh ra và lớn lên: “Như những người được Thiên Chúa chọn, những người thánh thiện và được yêu thương anh em hãy học lấy những tâm tình từ bi, nhân hậu, khiêm cung, ôn hòa, nhẫn nại, chịu đựng lẫn nhau, và hãy tha thứ cho nhau…
Có một chú rể nọ, trước ngày cưới, cùng với cô dâu đến xin lời khuyên của cha mẹ vợ trước khi về chung sống ăn ở với nhau. Cha mẹ vợ đã có tuổi, ống rất hạnh phúc với nhau trong 40 năm. Nhìn vào gương sáng của cha mẹ, chàng rể xin các ngài dạy cho bài học phải làm sao để giữ hạnh phúc trong gia đình. Ông bố vợ mới dạy một bí quyết như sau: “Để giữ cho gia đình hạnh phúc, êm ấm, bố mẹ đã cố gắng giữ một nguyên tắc như sau: Trong gia đình, bất cứ chuyện gì quan trọng, bố quyết định hết!” Nghe vậy, chú rể khoái chí, thúc cùi chỏ vào cô dâu dặn dò: “Nghe rõ chưa em?” “Những chuyện nhỏ, mẹ con quyết định!” Ông bố nói tiếp: “Nhưng trong 40 năm chung sống với mẹ của các con, bố chưa thấy có chuyện gì đáng kể là quan trọng cả!”
Thánh Kinh đề cao những nhân đức giúp cho gia đình hạnh phúc. Các nhân đức này đều nhằm đến việc duy trì một hòa khí yêu thương, đồng tâm nhất trí, ý hợp tâm đầu. Đây chính là chìa khoá mở cửa hạnh phúc gia đình. Sau đây là bức thư đăng trong mục Ann Landers trên các tờ nhật báo lớn ở Mỹ.
Ann Landers thân mến.
Tôi năm nay 46 tuổi, ly dị chồng, đang sống với ba đứa con thơ. Tiếp theo việc giải phẫu ngực vì ung thư, vài tháng sau đó tôi được điều trị bằng hóa chất – chemotherapy. Tôi sắp xếp mọi công việc để đi bác sĩ khám bệnh lại, và vô cùng tuyệt vọng vì ung thư lại tái phát mạnh mẽ hơn trước!
Những người thân trong gia đình chẳng ai nâng đỡ, ngó ngàng gì đến tôi cả. Tôi là người đầu tiên trong gia đình bị ung thư, nên có lẽ chẳng ai biết cư xử với tôi ra sao. Họ cố gắng tử tế với tôi, nhưng tôi có cảm giác rằng họ sợ bị lây bệnh. Họ giữ khoảng cách ở xa xa, và gọi điện thoại hỏi thăm qua loa. Điều này làm tôi tủi thân và đau lòng.
Chúa nhật vừa qua tôi đem quần áo ra tiệm giặt. Tôi cũng gặp gỡ những khuôn mặt quen thuộc như mọi lần, cũng chào hỏi qua loa, nói vài câu. Tôi cố gắng giữ không tỏ lộ sự buồn bã, nhưng tinh thần sa sút trầm trọng. Đang khi đưa quần áo từ ngoài xe vào trong tiệm giặt, ngẩng đầu lên, tôi bắt gặp một người đàn ông, khuôn mặt quen quen. Ông vừa giặt xong, đang đưa quần áo ra xe đi về. Ông mỉm cười và chào tôi. Hôm nay có khoẻ không?” Tôi bị mất tự chủ, trút hết nỗi lòng: “Hôm nay là ngày tệ nhất trong đời tôi! Ung thư lại nặng thêm!” Rồi tôi bật lên khóc nức nở.
Ông choàng tay qua vai tôi, để tôi khóc tức tưởi, rồi nói, “Tôi hiểu chị. Vợ tôi cũng đã bị như vậy”. Sau vài phút tôi cảm thấy dễ chịu hơn, cám ơn ông vì sự thông cảm của ông, rồi bưng thùng quần áo đưa vào tiệm giặt. Khoảng 15 phút sau, người đàn ông tôi vừa gặp trở vào cùng với vợ ông. Chị bước đến với tôi, và không cần phải nói lời nào, chị ôm lấy tôi và nói, “Đừng ngại ngùng gì, hãy tâm sự với tôi, xưa kia tôi cũng đã từng bị như chị bây giờ. Tôi biết những khó khăn chị đang phải chịu”.
Bà Ann thân mến, tôi không thể diễn tả ra được cử chỉ của chị ấy đã giúp tôi là dường nào. Ở đây một người hòan tòan xa lạ, bỏ công lao, thì giờ ra để nâng đỡ và khích lệ tôi can đảm hướng về tương lai vào một thời điểm mà tôi dường như sắp sửa muốn buông xuôi. Tôi hy vọng Thiên Chúa sẽ ban cho tôi cơ hội để làm cho một người nào đó điều mà người phụ nữ tốt lành kia đã làm cho tôi. Nhưng trong lúc chờ đợi cơ hội đó, bà Ann thân mến, hãy làm ơn cho độc giả biết rằng mặc dù có rất nhiều người cứng lòng trên thế gian này, nhưng cũng có những người rộng lượng và nhân hậu không thể tưởng tượng được”.
Ngày nay đời sống hôn nhân và gia đình ở các nước tân tiến đang gặp khủng hoảng trầm trọng. Cuộc sống vật chất và ích kỷ đã tạo ra những sự sụp đổ trong quan hệ gia đình và vợ chồng. Theo thống kê một nửa hôn nhân kết thúc bằng ly dị!
Vì tình trạng gia đình tan vỡ, nên có nhiều trẻ em lớn lên không có cha hay mẹ săn sóc. Theo sách Sáng Thế, Thiên Chúa đã hoạch định cho con người có đời sống hôn nhân không phải vì ích lợi của đôi vợ chồng, bớt cô đơn, “người đàn ông ở một mình không tốt”, mà còn để sinh sản và giáo dục con cái trong sự quân bình tâm lý của một gia đình, biết được cả nam lẫn nữ là cha mẹ mình.
Nhân dịp đầu năm 1994, cử hành thánh lễ Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, và cầu nguyện cho hoà bình thế giới, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đề cập đến việc trẻ em học được sự hòa bình qua đời sống gia đình ấm áp và yêu thương nhau giữa vợ chồng, cha mẹ và con cái. Ngài nói: “Một người hoạt động để xây dựng đời sống gia đình tốt đẹp là làm việc cho hòa bình”.
Hôm nay mừng lễ Thánh Gia, ước gì những lời khuyên nhủ của thánh Phaolô gửi cho tín hữu Côlossê là yếu tố có thể thay đổi được tình trạng suy đồi nơi các gia đình và hôn nhân hiện nay. Những nhân đức đó, giúp cải thiện sự liên hệ giữa con người với con người, và tạo nên hòa khí trong một gia đình hạnh phúc, yêu thương nhau như gia đình Thánh Gia. [Mục Lục]
(Suy niệm của Lm. FX Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Chương 1–2 của Tin Mừng Luca có ý tưởng chủ đạo là sự hoàn tất lời Thiên Chúa hứa ban Đấng Mêsia. Các truyện kết cấu nhịp nhàng và đạt tới đỉnh điểm khi Đức Giêsu được dâng trong Đền Thờ. Trong biến cố này, tác giả đã nhìn thấy Đức Giêsu tỏ mình công khai. Ngài diễn tả được điều đó khi dùng Đanien 9–10 trong các lời loan báo cho Đức Maria và Dacaria, cũng như khi dùng Malakhi 3 trong lời loan báo cho Dacaria, trong bài ca “Chúc tụng” (Benedictus) và trong truyện Dâng con trong Đền Thờ. Được quy tụ lại quanh khái niệm “sự hoàn tất các ngày” (= đã mãn: 1,23.57; 2,6.21-22), các bản văn thiên sai này nêu bật ý tưởng là thời thiên sai đã đến. Vậy các chương này thuộc lịch sử tôn giáo được viết theo ngôn ngữ Kinh thánh.
Lc 1,5–2,22 là một chuỗi các thời điểm. Tác giả đã muốn nối kết biến cố sứ thần Gabriel hiện ra ở Đền Thờ với việc Đức Giêsu tỏ mình ra cũng tại đấy bằng một con số huyền bí (70 tuần 7 ngày):
– 6 tháng (Lc 1,26.36) kể từ khi Dacaria được báo tin tới khi Đức Maria được báo tin: 30 ngày x 6 = 180 ngày
– 9 tháng kể từ khi Đức Maria được truyền tin đến khi Đức Giêsu chào đời: 30 ngày x 9 = 270 ngày
– 40 ngày kể từ khi Đức Giêsu chào đời cho đến khi được tiến dâng: = 40 ngày
Tổng cộng: = 490 ngày = 70 tuần 7 ngày.
Thế mà theo lời sấm Đn 9,21-24, sau 70 tuần, Israel sẽ được thanh tẩy khỏi các tội và Đền Thờ Giêrusalem sẽ được tái cung hiến (thời vua Antiôkhô IV Êpiphanê / Giuđa Macabê). Tác giả Lc muốn cho thấy rằng việc Đức Giêsu được tiến dâng trong Đền Thờ đã khởi sự việc “Vinh quang” của Thiên Chúa (x. cụ Simêôn gọi Đức Giêsu là “vinh quang của Israel”) đến cư ngụ vào thời cánh chung để thanh tẩy Đền Thờ và Israel. Việc này cũng làm ứng nghiệm lời ngôn sứ Ml (3,1).
2.- Bố cục
Nên đọc bản văn này từ câu 21, để duy trì được sự song đối giữa Gioan và Đức Giêsu. Do đó, chúng tôi xác định bố cục có cả c. 21. Đoạn này gồm hai phần chính và một kết luận:
1) Hai khúc dạo đầu (2,21-24):
– cắt bì và đặt tên (c. 21),
– thanh tẩy Đức Maria và dâng Đức Giêsu (cc. 22-24).
2) Hai cuộc tỏ mình (2,25-38):
– tỏ mình cho cụ Simêôn (cc. 25-35),
– tỏ mình cho bà Anna (cc. 36-38).
3) Kết: Nhắc lại điệp khúc của bài tường thuật về Thời thơ ấu (2,39-40).
3.- Vài ghi chú về chú giải
– Khi đã đến ngày lễ thanh tẩy của các ngài (22): “Các ngài” là Đức Maria và Giuse? hay là Đức Maria và Đức Giêsu? Luật không buộc thanh tẩy người chồng hoặc đứa con trai sơ sinh. Tuy vậy, “các ngài” phải được hiểu là quy về Giuse và Đức Maria, bởi vì các ngài là chủ từ của động từ “đem [con] lên”. Các nhà chú giải nhìn nhận rằng tác giả Lc, vì không phải là một Kitô hữu gốc Do Thái Paléttina, nên đã không được hiểu biết chính xác về tập tục thanh tẩy một phụ nữ sau khi sinh con. Và đây cũng là một dấu cho thấy rằng thông tin ngài có được không phát xuất từ những kỷ niệm hay ghi nhớ của Đức Maria.
– theo Luật Môsê(22): Theo Lêvi 12,2-8, một phụ nữ sinh một con trai bị coi là ô uế trong vòng 40 ngày: sau 7 ngày, đứa bé phải được cắt bì (vào ngày thứ tám), và người mẹ còn phải chờ ở nhà 33 ngày nữa, “cho đến khi mãn thời gian thanh tẩy của bà” (Lv 12,4), trước khi bà được đụng chạm vào bất cứ vật thánh nào hoặc đi vào các sân Đền Thờ. Sau ngày thứ bốn mươi (hoặc thứ tám mươi), bà phải đem đến cho vị tư tế phục dịch tuần ấy tại Lều Hội Ngộ hay Đền Thờ một con chiên một tuổi làm lễ toàn thiêu và một bồ câu non hay một chim gáy làm lễ tạ tội. Nếu không thể dâng con chiên, bà phải dâng hai chim gáy hoặc hai bồ câu non.
– để tiến dâng cho Chúa (22): Chi tiết này mô phỏng truyện bà Anna dâng Samuen ở 1 Sm 1,22-24. Tuy vậy, đến câu sau, tác giả Lc nối kết việc dâng Đức Giêsu với luật về đứa con đầu lòng. Đức Giêsu được gọi là “con trai đầu lòng” ở 2,7, và việc chuộc lại Người là nhiệm vụ của cha mẹ Người. Trong Xh 13,1-2, chúng ta đọc: “Đức Chúa phán với ông Môsê: ‘Hãy thánh hiến cho Ta mọi con so, mọi con đầu lòng trong số con cái Israel, dù là người hay là thú vật: nó thuộc về Ta”. Sự thánh hiến này sẽ bảo đảm phúc lành cho những đứa con đến sau. Đứa con đầu lòng được chuộc lại bằng cách trả năm sê-ken (= mười lăm chỉ bạc), tính theo đơn vị đo lường của thánh điện (Ds 3,47-48; 18,15-16), nộp cho một thành viên của gia đình tư tế, khi đứa bé đã được một tháng. Tác giả Lc không nhắc gì đến việc trả số bạc; thay vào đó, ngài diễn tả việc chuộc con như là việc dâng con vào Đền Thờ Giêrusalem, một tập tục không có chỗ nào trong Cựu Ước hoặc sách Mishnah nói cả.
– để dâng của lễ theo Luật Chúa truyền (24): Hy lễ không phải là cho việc chuộc con đầu lòng, nhưng là cho việc thanh tẩy bà mẹ.
– công chính và sùng đạo (25): Các chi tiết mô tả cụ Simêôn đã đặt ông cùng với Dacaria và Êlisabét, Giuse và Đức Maria, và bà Anna, vào số những đại diện của những người Do Thái trung thành đang sống tại Paléttina vào thời gian sát ngay trước khi Đức Giêsu chào đời.
– niềm an ủi của Ít-ra-en (25): Ta hiểu đây là niềm hy vọng hậu Lưu đày: dân trông chờ Thiên Chúa khôi phục lại chế độ thần quyền tại Israel (x. Is 40,1; 61,2).
– ra đi (29): Ông Simêôn dùng ngôn ngữ của người canh đêm, sau khi đã hoàn tất công việc, xin được nghỉ ngơi.
– một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà (35): Có những tác giả cho rằng “thanh gươm” đây là nỗi ngờ vực về chân tính sâu xa của Con mà Đức Maria sẽ cảm nghiệm khi nhìn Đức Giêsu bị đóng đinh (chẳng hạn Origiênê, Reuss, Bleek…). Cách giải thích này không tương ứng với TM Lc, và có vẻ là một cách giải thích theo tâm lý không có cơ sở. Cách giải thích truyền thống (kể từ Paulin de Nole và thánh Âutinh) đã coi “thanh gươm” này là nỗi đau đớn đồng cảm Đức Maria cảm nhận khi chứng kiến Con mình bị đóng đinh. Tuy nhiên, cách giải thích này cũng không phù hợp với TM Lc, bởi vì Đức Maria chỉ xuất hiện dưới chân thập giá trong TM Ga mà thôi (Ga 19,25-27) và cũng chỉ trong Ga, cạnh sườn của Đức Giêsu mới bị một ngọn giáo đâm thâu (Ga 19,34). TM Lc không bao giờ nói rằng Đức Maria ở trong số các phụ nữ đã đi theo Người từ Galilê (Lc 23,49.55; 24,10). Cách giải thích này lại cắt ngang chuyển động của bản văn và dường như đưa vào đó một ngoặc đơn (x. bản dịch Bible de Jérusalem, CGKPV) hơi lạ. Cách giải thích này cũng giới hạn quá đáng vào cá nhân Đức Maria, điều này dường như trái với cái nhìn của tác giả Lc: đối với ngài cũng như đối với tất cả các tác giả Tân Ước, tâm lý của các nhân vật không đáng kể bằng vai trò của họ trong Lịch sử cứu độ (ta thấy điều này trong các bản văn về Thời thơ ấu: Đức Maria chỉ luôn đóng một vai trò lệ thuộc vào vai trò của Đức Giêsu). Đã thế, lối giải thích này lại chỉ ưu tiên chú ý đến Núi Sọ. Cần phải tìm ý nghĩa của lời này của ông Simêôn trong nhãn quan của tác giả Lc về Đức Maria.
(1) Ở trong Cựu Ước, hình ảnh “thanh gươm” là biểu tượng của sự “chia rẽ” và “mâu thuẫn” (x. Ed 12; 14;…). Ở Is 49,2, Thiên Chúa đã làm cho miệng lưỡi Người Tôi Trung nên như một “lưỡi gươm sắc bén”. Sách Khải huyền đã lấy lại hình ảnh này và áp dụng cho Đức Kitô (1,16; 2,12.16; 19,15.21). Khi ta thấy rằng viên Kỵ sĩ trong Kh được gọi là “Lời của Thiên Chúa” và “từ miệng Người phóng ra một thanh gươm sắc bén” (Kh 19,13.15), đàng khác, ta lại nhận thấy rằng Is 49,2 chỉ đi trước Is 49,6 một chút, trong đó Người Tôi Trung được gọi là “ánh sáng muôn dân”, tức khắc ta nghĩ rằng hai câu này hiện diện trong tâm trí tác giả Lc khi ngài viết cc. 32.35a, và thanh gươm phân rẽ giữa lòng Israel chính là Lời mạc khải của Thiên Chúa là chính Đức Giêsu, Lời mang lại ơn cứu độ, nhưng cũng là Lời sẽ phán xét (x. Dt 4,12). Thế mà dọc theo hai chương đầu, ta thấy tác giả Lc giới thiệu Đức Maria như là Thiếu nữ Sion, nghĩa là Israel được nhân-cách-hóa (đọc Lc 1,28 dưới ánh sáng của Xp 3,14-15 và Dcr 2,14). Theo hướng này, ta hiểu tác giả đang vận dụng một kiểu nhân-cách-hóa tiên trưng để trình bày hoạt cảnh Dâng Con trong Đền Thờ, và như vậy, ngài đã đặt vào miệng ông Simêôn c. 35a để ngỏ lời với Đức Maria trong tư cách là Thiếu nữ Sion: nơi Mẹ, chính là Israel sẽ bị thanh gươm của Đức Chúa đâm thâu.
Cách giải thích này (được gợi ý bởi Sahlin, Black, Laurentin, Boismard, Benoýt…) có điểm thuận lợi là làm cho c. 35a ăn khớp hài hòa với ngữ cảnh. Thay vì đưa vào đó một ngoặc đơn, chi câu này trở thành một mắt xích của một phần triển khai, trong đó tư tưởng trước được nối tiếp và tư tưởng sau được chuẩn bị. Các câu 34 và 35a mô tả cuộc khủng hoảng gây ra nơi Israel bởi “dấu hiệu gây chống báng” được ngôn sứ Êdêkien coi như một thanh gươm của Thiên Chúa đâm thâu tâm hồn dân Chúa; còn c. 35b là kết luận: sự thử thách gây ra bởi việc Đức Giêsu đến, do việc đòi hỏi phải chọn lựa theo hay chống Người, sẽ đưa tới chỗ thâm tâm của người ta phải lộ ra.
Hiểu như thế, cc. 34-35 hoàn toàn di theo và minh họa cc. 30-32. Lời sấm của ông Simêôn được phân phối thành hai cánh của một bức tranh bộ đôi: một cánh thì cho thấy Dân Ngoại được ánh sáng soi đường và muôn dân được cứu độ, và đây phải là vinh quang cho Israel; cánh kia cho thấy khủng hoảng của chính Israel này, khiến nhiều con cái của Dân Chúa chọn phải vấp ngã. Vậy đây chính là toàn thể tấn bi kịch của Lịch sử cứu độ được ông Simêôn trình bày cô đọng, và sẽ được tác giả Luca tiếp tục trình bày trong Tin Mừng cũng như trong Công vụ.
(2) Có một cách giải thích khác cũng có thể chấp nhận như một tầng ý nghĩa khác của câu này, và như một cách chứng minh kiểu tiêu cực cho cách trên đây. Trong Ed 14,17 (Hy Lạp), có nối kết “thanh gươm” với “đâm thâu (= xuyên qua)”. Theo hình ảnh này, thanh gươm phân biệt ra (chọn ra) một số người để bị tiêu diệt và một số người để được cứu độ (x. Ed 5,1-2; 6,8-9). Trong ngữ cảnh của Lc, hình ảnh này phát xuất từ ý tưởng nói rằng vai trò của Đức Giêsu là làm duyên cớ cho nhiều người Israel phải vấp ngã hay được chỗi dậy. Đức Maria, là thành viên của Israel, cũng sẽ phải chịu ảnh hưởng. Trong Lc, chính Đức Giêsu sẽ được mô tả như một người gây chia rẽ trong các gia đình (12,51-53). Như vậy, với hình ảnh thanh gươm đâm thâu Đức Maria, ông Simêôn gợi đến khó khăn mà Mẹ sẽ gặp thì mới học ra rằng việc vâng phục Lời Thiên Chúa phải vượt lên trên cả những dây liên hệ gia đình (x. 8,21; 11,27-28).
4.- Ý nghĩa bản văn
* Hai khúc dạo đầu (21-24)
Cũng như việc cắt bì và đặt tên cho Gioan là cơ hội để con trẻ tỏ mình ra và để Dacaria nói lên một lời sấm, ở đây cũng vậy, việc cắt bì và đạt tên cho Đức Giêsu là cơ hội để Người tỏ mình ra. Cũng như Gioan, Đức Giêsu được ghi dấu ấn là dấu chỉ của giao ước (St 17,11) và tháp nhập vào Israel (x. Gs 5,2-9). Ngài cũng được đặt tên là Giêsu, một tên được chính Thiên Chúa ban cho. Bản văn nhấn mạnh trên việc đặt tên hơn là trên việc cắt bì.
Trong cc. 22-24, có hai biến cố được kể lại nhân dịp Đức Giêsu tỏ mình ra: (a) việc thanh tẩy Đức Maria, 40 ngày sau khi sinh Đức Giêsu (cc. 22a.24); và (b) việc chuộc lại Đức Giêsu, một tháng sau khi sinh (cc. 22b.23). Dường như Luca đã mô phỏng truyện dâng Samuel (1 Sm 1,22-24) mà tả cảnh này. Bản văn nhấn mạnh trên sự trung thành của Đức Maria và ông Giuse, như là những người Do Thái đạo đức, khi thi hành những điều buộc của Luật Môsê. Trong các câu này, Luật được nhắc đến 3 lần (cc. 22a.23a.24a) và trong truyện tỏ mình ra cho ông Simêôn (c. 27) và trong phần kết (c. 39). Hình thái cứu độ mới của Thiên Chúa đến với việc vâng phục Luật này.
* Hai cuộc tỏ mình (25-38)
Hình ảnh ông Simêôn gợi nhớ đến tư tế Êli trong 1 Sm 1–2 cũng như Dacaria trong truyện Gioan Tẩy Giả. Cũng như Dacaria đã tiên báo sự cao cả của Gioan Tẩy Giả trong bài ca “Chúc tụng”, nay sự cao cả của Đức Giêsu được ông Simêôn ca tụng. Do có sự song đối như thế, đến đây ông Simêôn nói hai lời tuyên bố, một là bài thánh ca ở cc. 29-32 và một là lời sấm ở cc. 34-35. Bài thánh ca công bố hình thái cứu độ mới của Thiên Chúa. Lời sấm được ngỏ với Đức Maria để nói về sứ mạng của Đức Giêsu và thân phận của Mẹ.
Tác giả luôn luôn viết một truyện về phái nam đi song song với một truyện về phái nữ, ở đây cũng vậy: bà Anna song đối với ông Simêôn. Sự cao cả của Gioan được Dacaria công bố trong bài ca của ông; nhưng sự cao cả của Đức Giêsu lại không chỉ được ông Simêôn công bố mà được cả bà Anna giới thiệu nữa. Tuy nhiên, bà Anna không nói một tuyên bố nào; vai trò của bà là phổ biến tin mừng về hài nhi mà ông Simêôn đã nhận biết.
* Nhắc lại điệp khúc của bài tường thuật về Thời thơ ấu (39-40)
Hai câu kết làm vọng lại điệp khúc đã có trong bài tường thuật về Thời thơ ấu (1,80; 2,52). Câu này nhắc lại từng chữ bản mô tả Gioan (1,80). Toàn c. 40 gợi lại truyện Samuen, nhất là 1 Sm 2,21c.26.
+ Kết luận
Câu truyện này là một lễ mừng các cuộc gặp gỡ trong niềm vui. Truyện được kể cho chúng ta ở đây cho thấy nhiều tương quan khác nhau. Chúng ta thấy Đức Giêsu trong dây liên hệ có một không hai với Thiên Chúa. Chúng ta cũng thấy cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và ông Simêôn, Đức Maria và bà Anna. Gặp gỡ Đức Giêsu đưa lại niềm vui vô biên, nhưng cũng tạo nên một quan hệ buộc người ta phải rảo qua trọn con đường với Người và phải luôn luôn ở gần kề với Người.
5.- Bài học
- Hôm nay, trong bản thân hài nhi Giêsu, chính Thiên Chúa trở lại với thánh điện của Ngài lâu nay bị bỏ hoang. Cho dù tọi lỗi của Israel có thế nào, Thiên Chúa vẫn trung thành giữ những lời đã hứa. Vào dịp chúng ta chịu phép rửa tội, Thiên Chúa đã nhận chúng ta làm con. Cho dù chúng ta có bất trung thế nào, Người vẫn không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Cho dù các tội lỗi của chúng ta đã xua đuổi Người ra khỏi thánh điện là trái tim chúng ta, Người vẫn tìm mọi cách để đưa chúng ta đến chỗ hoán cải. Hãy mở rộng thánh điện tâm hồn mà đón Đức Kitô.
- Chúa Thánh Thần luôn luôn có mặt và làm việc. Chúng ta cũng có thể sống thường xuyên dưới tác động của Người nếu chúng ta ở trong ơn nghĩa với Thiên Chúa và chăm chú đi theo những gợi ý của Người trong lòng. Khi đó, Chúa Thánh Thần có thể trở thành một nguồn ánh sáng giúp chúng ta hiểu niềm tin của chúng ta rõ hơn cũng như hiểu bổn phận của chúng ta chính xác hơn, một nguồn sức mạnh thiêng liêng giúp chúng ta can đảm sống đời môn đệ của Đức Kitô, một nguồn gợi hứng trong khi chúng ta cầu nguyện cũng như sống nếp sống hằng ngày.
- Ông Simêôn và bà Anna là gương mẫu cho chúng ta về cách sống hy vọng và trung thành. Sự trung thành của họ đã được ban thưởng. Mỗi khi chúng ta rước lễ, chúng ta cũng được nhận ân huệ ấy. Do đó, cần chuẩn bị với thái độ chờ đợi trung thành và nhận Thánh Thể với những tâm tình biết ơn.
- Tất cả cuộc sống của Đức Maria và ông Giuse tập trung vào Đức Giêsu, trong khi Người lớn lên bình thường như mọi trẻ em khác. Nhưng “ơn nghĩa của Thiên Chúa vẫn ở trên Đức Giêsu” (c. 40) đã tạo nên trong gia đình này một bầu khí hiệp nhất, êm đềm, yêu thương. Bí quyết của hạnh phúc đơn giản và siêu nhiên ấy, chính là sự hiện diện phong phú của Đức Giêsu. Đây là điển hình hoàn hảo cho mọi gia đình Kitô hữu. Nếu Đức Kitô thật là trung tâm của gia đình, thì mặc dù có những thử thách của cuộc đời, chúng ta vẫn sẽ cảm nhận được hạnh phúc lớn lao là được yêu thương người khác và được người khác yêu thương, dưới cái nhìn của Thiên Chúa.
- Nơi Đức Giêsu, Thiên Chúa đã đi vào Đền Thờ của Người. “Đó mãi mãi là cách Thiên Chúa đến viếng thăm …” sự thinh lặng, sự bất ngờ dưới mắt thế gian, mặc dù có những lời tiên báo mà mọi người đều biết … Không thể khác được. Các lưu ý của Thiên Chúa thì rõ ràng, nhưng thế giới vẫn tiếp tục dòng lưu chuyển của nó; khi đã dấn thân vào các hoạt động của họ, loài người không biết biện phân ra ý nghĩa của lịch sử. Họ coi các biến cố lớn là những sự kiện không quan trọng và do lường giá trị các thực tại theo một tầm nhìn hoàn toàn loài người… Thế giới vẫn mù lòa, nhưng sự Quan phòng ẩn tàng của Thiên Chúa thì tự thể hiện ngày qua ngày” (Hồng Y John Henry Newman, 1801-1890). [Mục Lục]
Khi đã đến ngày phải làm lễ tẩy uế theo luật Môsê… tiến dâng như Luật Chúa quy định… để chu toàn nghi thức theo Luật Chúa truyền…theo như những gì đã ghi trong luật… khi họ chu toàn nghi lễ, như thiên hạ thường làm theo luật.
Chắc chắn, đây không phải là ngẫu nhiên mà Luca nhấn mạnh tới 5 lần (các câu 22, 23, 24, 27, 39) về việc chu toàn lề luật. Dù là “Con Thiên Chúa” Đức Giêsu đã tuân theo lề luật của con người. Đó là nét thâm sâu và sự thật về mầu nhiệm nhập thể. Ngài không tự coi mình như “có đặc quyền”. Người hành xử “như mọi người” không có gì phân biệt Người với kẻ khác. Tôi dùng thời giờ để suy niệm lâu hơn về sự khiêm hạ phi thường này, rnà Thánh Phaolô gọi là: một “cuộc làm cho mình hóa ra không”, một “kénose” (Pl 2,7). Đừng tự đặt mình vào số ngoại lệ. Không nên đòi hỏi những đặc quyền. Nên thực tế chấp nhận những nghịch chướng thường có trong cuộc sống, những dịch vụ không vinh dự của thân phận chúng ta.
Cha mẹ Đức Giêsu đem Người lên Giêrusalem… vào Đền thờ.
Cuộc lên đường này mang đầy ý nghĩa. Đó là đỉnh cao của “hai chương” Luca dành cho tuổi thơ của Gioan Tẩy Giả và của Đức Giêsu. Nhưng Luca hữu ý tạo cho bước đường của Đức Giêsu sự ngược với Gioan. Việc báo tin cho Dacaria diễn ra trong khung cảnh trang trọng và huyền diệu của buổi lễ tế tự nơi Đền Thánh (Lc 1,0) nhưng Gioan con trai của ông lại ẩn mình “trong hoang địa” (Lc l,80). Còn việc truyền tin cho Maria xảy ra tại làng Nagiarét nhỏ bé tầm thường (Ga l,46), nhưng Giêsu con trai của bà lại được nhận biết như Đấng “Mêsia” trong thành thánh Giêrusalem; tại Đền thờ, giữa trung tâm thành phố, nơi hiện diện kỳ diệu của Thiên Chúa (Lc 2,27; 2,37). Như thế là chúng ta dang dừng lại trước ” trang cuối cùng”… kết thúc Cựu ước! Những người Do Thái, đôi vợ chồng trẻ, đang “chu toàn lề luật Môsê”. Một cách tượng trưng, lề luật được chấm dứt với cử chỉ này sẻ không cần tới Đền thờ nữa: người ta cũng sẽ phá hủy Đền. thờ, đó là “cuộc trở lại đầy Vinh quang của Thiên Chúa giữa Dân Người” như vị ngôn sứ loan báo (Ml 3, 1-4). Nhưng Thiên Chúa đến cách đột xuất, bất ngờ biết bao “! Không khi nào Người đến như người ta chờ đợi.
Có một người tên là Simêon. Ông là người công chính và sùng đạo… Lại cũng có một bà ngôn sứ tên là Anna.. Bà ở góa, đến nay đã 84 tuổi, sớm hôm thờ phượng Thiên Chúa trong Đền thờ”.
Không phải ngẫu nhiên mà ta thích thú nhận ra rằng, theo Luca, không phải giới có thẩm quyền như các thầy tư tế các kinh sư nhận biết Đức Giêsu.. mà là những con người tầm xoàng, nhưng kẻ nghèo khó? Qua hai người tiêu biểu cho những kẻ “bé mọn” trên đây, thì toàn thể dân chúng thuộc “nhóm người nghèo Thiên Chúa yêu thương” đã đến gặp gỡ Đấng Cứu độ của họ. Đằng khác, điều đó cũng đã được các ngôn sứ loan báo: “Ta sẽ chừa lại giữa ngươi một dân khiêm nhu hèn mọn..:” một số nhỏ “còn sót lại (Xp 3,12; Is 16.14 + 30, 17,37.4; Gr 6,9; Ge 3,5) Simêon và Anna tiêu biểu cho những người nghèo. Họ đều đã già cả; thuộc hạng người mà toàn thể xã hội muốn quên bỏ không mấy trân trọng “(Kn 3,13). Hơn nữa, Anna lại là cụ già “góa bụa”, nghĩa là theo ngôn ngữ Kinh thánh, là cái nghèo hiện thân, vì cụ đã mất đi tất cả những gì đảm bảo cho mình chỗ đứng trong một xã hội mà chỉ người chồng mới có quyền pháp lý. Lạy Chúa, xin biến trái tim chúng con trở nên những tâm hồn của người nghèo, để chúng con biết nhận ra Chúa, trong những dạng bề ngoài khó nghèo mà Chúa thường ẩn dấu…
Simêon ẵm lấy hài nhi trên tay… Đấng Mêsia của Chúa… ơn cứu độ dành sẵn cho muôn dân… ánh sáng soi đường cho dân ngoại… vinh quang của Israel…
Thiên Chúa ưa đột xuất, dễ gây ngỡ ngàng! Người ta mong chờ “vinh quang”, “quyền lực”! Thì Ngài lại xuất hiện trong thân phận một “trẻ nhỏ”, một bé thơ thật sự khóc oe oe, chưa biết đứng thẳng, phải bồng ẵm trên tay! Chỉ có cụ già đó, tự để cho Đức tin và Thánh Thần mở mắt mình! Ba lần gọi tên trong bản văn, mới có thể nhận thấy được sự khám phá ra được điều đó, cần phải trở nên khó nghèo, Đức tin là một thứ nghèo khó: người ta nhìn mà không nhận biết (Ga 20,29). ấy thế mà dưới lớp vẻ bề ngoài nghịch thường bé bỏng của em nhỏ (ta nghĩ đến “hình dạng bề ngoài” của bánh mà ta lãnh nhận…), lại chính là lễ tấn phong cách công khai của Đức Giêsu “trong Đền thờ của Người”: Những tước hiệu mà hai người nghèo khó trên đây tặng cho Người, thật là ngời sáng! Đức Giêsu – gói thịt đáng thương này (và Ngôi lời đã mặc xác phàm) lại chính là Đấng Mêsia của Thiên Chúa… “ơn cứu độ của muôn người “… “ánh sáng”… “Vinh quang”… “Sự giải thoát” Giêrusalem… Lạy Chúa, xin ban cho chúng con đức tin.
Những lời ông Simêon nói về Hài nhi làm cho cha mẹ Người ngạc nhiêm bỡ ngỡ.
Như thế, đây cũng là lời xác nhận rằng, “đức tin của cha mẹ” cũng cần phải tiến triển! Không biết lòng tin của họ ra sao, nhưng Maria và Giuse đều rất đỗi ngạc nhiên và bỡ ngỡ trước những “tước hiệu” mà ngời ta gán cho con mình. Biến cố này gợi lên lòng tin của ông bà. Mười hai năm sau, tại Đền thờ này, ông bà cũng sẽ không hiểu gì (Lc 2,48-50) và vẫn còn ngạc nhiên. Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa giúp chúng con luôn được ngạc nhiên bỡ ngỡ như thế.
Ông bà đem con lên Giêrusalem để tiến dâng cho Chúa… và dâng của lễ theo luật định.
Đó là hai kiểu nói Luca đã sử dụng để trình bày “nghi thức” mà đôi vợ chồng trẻ trên đây đã thi hành. Động từ Hy-lạp được dùng ở đây là (“parastènai”: “dâng hiến”), cũng chính là từ mà Phaolô sẽ dùng để nói lên thái độ căn bản của Kitô hữu. Đừng quên rằng, Luca là thư ký của Phaolô, và các bức thư đều được viết trước các Tin Mừng. Thế nên, Luca đã chủ ý dùng một ít mang ý nghĩa. “Anh em đừng hiến thân xác anh em phục vụ tội lỗi nữa, nhưng anh em hãy hiến toàn thân để phục vụ Thiên Chúa” (Rm 6,13). “Anh em hãy hiến thi thể anh em để phục vụ sự công chính, để trở nên thánh thiện” (Rm 6,19). “Thưa anh em, tôi khuyên nhủ anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa. Đó là cách thực xứng hợp để anh em thờ phượng Người” (Rm 12,1.).
Như vậy, Maria và Giuse đến thi hành trước, điều mà sau này chính Đức Giêsu sẽ thực hiện trong bữa tiệc ly và trên thập giá… và mọi Kitô hữu được mời gọi thể hiện trong mọi thánh lễ: hiến dâng mạng sống của mình! “Đây là mình Thầy sẽ bị nộp vì các con”. Lạy Chúa, khi thông hiệp với Chúa, chớ gì con biết hiến mạng sống mình vì yêu. Để làm nổi bật hai sự việc trên chỉ là một (“tiến dâng con” và “hiến dâng của lễ”), Luca trích dẫn hai đoạn văn Kinh Thánh, khi cần vẫn có thể tăng cường chiều kích “vượt qua” của trình thuật này: “Tất cả các con trai đầu lòng đều được thánh hiến dành cho Thiên Chúa” (Xh 13,2.12.15). Chúng ta hãy nhớ lại nguồn gốc của nghi thức này. Dân tộc Israel làm nô lệ bên Ai Cập. Để chấp nhận việc giải phóng vượt qua, vua Pharaô đã phải chứng kiến mọi con trai đầu lòng thuộc xứ sở mình đều chết hết. Một của lễ chiên vượt qua ghi dấu máu nơi cửa nhà Do Thái. Và để “ghi nhớ” ngày cứu độ giải phóng này, mọi con trai đầu lòng người Israel đều thuộc về Thiên Chúa! Muốn dẫn chúng trở lại gia đình, cần phải “chuộc lại”. Đó là biểu tượng lạ thường. Một vật thuộc về Thiên Chúa? Muốn dân chúng trở lại gia đình, cần phải “chuộc lại”. Đó là biểu tượng lạ thường. Một vật thuộc về Thiên Chúa: là một vật được hiến thánh!
Chính Đức Giêsu cũng được “hiến thánh” cách trọn vẹn! Và việc đó được diễn ra vào “ngày thứ bốn mươi”, thời gian tròn đầy.. và sau này còn có một “ngày thứ bốn mươi” nữa, để kết thúc mùa phục sinh dẫn tới biến cố lên trời làm cho sự hiện diện hữu hình của Đấng phục sinh biến khỏi. Đúng vậy, toàn bộ Tin Mừng đang nằm ở trang này. Và một cảnh vượt qua khác cũng sẽ diễn ra “ở Giêrusalem” (Lc 24, 47-52).
Phép rửa đã thánh hiến tôi cho Chúa. Biến cố đó có ý nghĩa gì đối với tôi không?
Của lễ là một đôi chim gáy, hay một cặp bồ câu non…
Thật là cảm động, phải không? Nhưng coi chừng, ta có thể biến toàn thể trình thuật trên đây của Luca thành giai thoại mất thôi! Một lần nữa, ta cần ghi nhận rằng, Luca đã không thêm bớt gì. Rõ ràng ông chỉ dựa vào những thực hành tôn giáo Do Thái hiển nhiên. Nhưng ta cũng có thể nhìn ra, tại sao Đức Giêsu lại không được miễn chước khỏi việc tuân giữ những tập tục đó. Mà thôi, đối với Luca, điều quan trọng thực sự đó là “nội dung” thần học, là “ý nghĩa” thâm sâu của các sự kiện lịch sử. Vậy ta cứ chấp nhận quan điểm của người thuật chuyện. Nào ta sẽ đọc toàn bộ bản văn mà Luca đã trích dẫn một đoạn nơi sách Lêvi (12,8): “Nếu người mẹ không đủ khả năng kiếm đủ tiền mua con vật, thì có thể dùng đôi phim gáy hay một cặp bồ câu. Đó! đúng là lễ vật của người nghèo. Maria đã không thể làm gì hơn được. Bà không thể trả tiền cao hơn! Đó là điều mà Luca nhằm gợi lên cho ta, nếu ta biết đoán ra ý người viết, và ta biết rằng toàn bộ Tin Mừng của ông sẽ là “tin vui cho người nghèo (Lc 4,18). Phải, toàn bộ Tin Mừng đã nằm ở trang này, bề ngoài xem ra đầy hình ảnh dân gian. Phúc thay những người nghèo, vì nước trời là của họ.
Được “thánh hiến” cho Thiên Chúa… điều đó không đòi hỏi những dấu hiệu huy hoàng. Mọi người nghèo trên thế giới với áo quần rách rưới, lại “xứng đáng” với Thiên Chúa và được thánh hiến… Những người nghèo được “thánh hiến”! Tôi có kính trọng họ không?
Cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel phải hư vong hay được ơn cứu độ, cháu còn là dấu hiệu bị người đời chống báng.
Đức Giêsu cũng là một “dấu hiệu”, một “dấu hiệu bị chống báng”, một “dấu hiệu mà người ta có thể phủ nhận”. Thiên Chúa không muốn áp đặt. Người đã trao ban tự do. Người chấp nhận ” dấu chỉ tình yêu của Người có thể bị người đời chối bỏ! Péguy sẽ nói: “Những khúm núm lụy phục của kẻ nô lệ không nói lên cho Người điều gì cả”. Như thế mỗi người phải tự quyết định trước trường hợp “Giêsu” Ta có thể từ chối Ngài, nghĩa là phải hy vọng, phải quỳ xuống… ta có thể đón nhận Người, nghĩa là được ơn cứu độ được nâng lên…
Ngay tại trang này, ta đã có Đấng “Thẩm phán vũ trụ”, Đấng phân chia loài người ra làm hai trong Ngày cánh chung (Mt 25-31). Lạy Chúa xin nâng con lên. Xin giúp con biết chọn Chúa.
Khi hai ông bà đã làm xong mọi việc như luật Chúa truyền, thì trở về nơi cư ngụ là thành Nagiarét, miền Galilê, còn hài nhi ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh… tiến triển…
Cuộc hành trình lên thủ đô đã kết thúc. Đôi vợ chồng trẻ lại trở về miền quê tăm tối của mình. Nhưng giờ đây, chính Thiên Chúa luôn ở cùng. Người sắp sống tại xưởng thợ nơi gia đình. Dần dần, Người sẽ tập sống làm người. Người sẽ học đời, học đi (ban đầu có thể lao đao, rồi té xuống). Người sẽ học đọc tại trường, học nghề thợ mộc… ôi thôi! kéo cưa của cậu mới ‘tập sự’ chưa giúp được việc gì. Những, Người cứ tập tành… Người sẽ tiến bộ. [Mục Lục]
LÒNG TIN KHÔNG ĐẮN ĐO
CỦA ĐỨC MARIA VÀ THÁNH GIUSE
Trung thành với Luật Môsê, các ngài dâng hiến Hài Nhi cho Thiên Chúa và cùng Đức Giêsu dấn thân lên đường.
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
- Chúa Giêsu tỏ mình ra trong đền thờ.
Đây là lần Chúa tỏ mình ra trong Đền thờ, trung tâm sinh hoạt tôn giáo của người Do Thái. Cũng trong tư cách là Đấng Cứu Thế, việc tỏ mình này có liên hệ chặt chẽ với việc tỏ mình ra cho các mục đồng vùng Bêlem.
Luca làm cho các độc giả của mình liên tưởng ngay đến “Luật Môsê” ấn định một thời hạn là bốn mươi ngày kể từ ngày sinh con cho đến khi làm lễ thanh tẩy cho người mẹ trẻ. H.Cousin nhận xét: Như vậy là “Bảy mươi tuần đã trôi qua kể từ ngày Thiên Thần Gabrien loan báo Gioan Tẩy Giả chào đời “: Công cuộc giả phóng Giêrusalem được loan báo trong Isaia (Is 40-55) nay trở thành hiện thực, như lời ông Simêon rồi đây sẽ hát lên (“L’evangile de lúc”, Centurion, trang 42).
Việc xảy ra tại thành đô “Giêrusalem”, nơi khi lên mười hai tuổi Đức Giêsu sẽ đi hành hương lần thứ nhất (2,42); nơi sẽ diễn ra cuộc “xuất hành” của Người (khổ nạn, chết, sống lại, lên trời) vào những ngày chót của cuộc hành hương long trọng cuối đời. Đây là điểm quan trọng, vì đối với Luca, Giêrusalem sẽ là trung tâm của biến cố Phục sinh và khởi điểm của công cuộc truyền bá Kitô giáo.
– Bối cảnh của sự việc là “Đền thờ’, nơi đây Luca đã khởi đầu Tin Mừng bằng việc truyền tin cho ông Dacaria (1,5,25); nơi đây Tin Mừng Luca sẽ kết thúc bằng lời cầu nguyện của cộng đoàn các môn đệ Đức Giêsu “Hằng ở trong Đền thờ mà chúc tụng Thiên Chúa” (24,25). ‘ ‘
“Cha mẹ Đức Giêsu” đem con lên Giêrusalem, “để tiến dâng cho Chúa”. Luca đặt vào đây hai nghi lễ riêng biệt:
+ Một đàng theo sách Lêvi 12,8, lễ “thanh tẩy” cho người mẹ
trẻ, 40 ngày sau khi sanh con, nếu là con trai, kèm theo của lễ là “một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non” đối với gia đình nghèo.
+ Đàng khác, theo sách Xuất Hành 13,12 và để kỷ niệm ngày tổ phụ Abraham sẵn sàng dâng hiến cho Thiên Chúa người con trai duy nhất của ông là Isaac (bài đọc 2), còn có việc thánh hiến và chuộc “con trai đầu lòng”.
Có tới ba lần Luca nhấn mạnh đến ý muốn của Giuse và Maria là trung thành làm xong mọi việc “như Luật Chúa truyền”. Ngay cả những việc không tiên liệu nữa, bởi lẽ các ngài đích thân dâng tiến con trai đầu lòng theo gương bà Anna đến Nhà Chúa dâng bé Samuen vậy (1 Sam 1,22-24).
- Ứng nghiệm những lời hứa, loan báo sứ mệnh của Đức Giêsu.
Hai nhân vật bất ngờ xuất hiện, một nam một nữ tiêu biểu cho niềm mong đợi Đấng Cứu Thế từ bao đời nay của Israel. Không hẹn, mà cả hai cùng đến gặp Maria và Giuse: “Và này đây tại Giêrusalem, có một người tên là Simêon… cũng có một nữ ngôn sứ là Anna”. Hai khuôn mặt đẹp gợi nhớ lại những vị thánh nam nữ trong Thánh Kinh kể từ Abraham là sa ra.. Hai bậc cao niên mà vì họ Hài nhi được Thánh Thần tác động, sẽ đến vén lên bức màn bao trùm biến cố để lộ ra ý nghĩa thực: nơi Hài nhi ấy các lời hứa đã được ứng nghiệm, hát nhi ấy loan báo việc sắp xảy ra.
– Trước tiên phải nói đến ông Simêon. Ông không phải là người có trách nhiệm phục vụ Đền Thờ vì ông không phải là tư tế, cũng chẳng phải là lê vi hay Kinh sư. ông chỉ là “người công chính” (nghĩa là người hoàn toàn “khớp với ý muốn của Thiên Chúa) và sùng đạo (nghĩa là người được lòng tin và niềm hy vọng của Israel hun đúc).
+ Trong Bài ca “an bình ra đi” của ông, ông chào mừng cuộc giáng lâm của Đấng cứu độ và tỏ ra mãn nguyện thấy lời Chúa hứa nay được thể hiện nơi Đức Giêsu.
Hài Nhi này đến làm cho lòng mong đợi của riêng ông và dân tộc ông được mãn nguyện; ông lên tiếng ngợi ca ơn lạ lùng Chúa đã ban cho chính ông, người trông đợi cuối cùng của Giao ước cũ, là được “bồng bế trên tay mình” Hài Nhi trưởng tử của một thế giới mới mà ông đã hình dung ra.
Rồi ngỏ lời trực tiếp với hài nhi, ông chào mừng con trẻ là Đấng Mêsia ” là “ơn cứu độ ” của Thiên Chúa, một ơn cứu-độ vượt khỏi biên giới Israel và có liên can tới mọi dân tộc, bởi lẽ hài nhi Giêsu này “là ánh sáng soi đường cho dân ngoại”. Ông kết thúc bài ca khi loan báo rằng nhiệm vụ trông đợi của Ông đã đến hồi kết thúc: “Giờ đây ông có thể ra đi an bình”.
Những lời tiên tri của ông Simêon khiến cho cha mẹ Hài Nhi “ngạc nhiên”, đồng thời cũng gây cho ông bà những thắc mắc đi đôi với sự hài lòng (xem dưới).
+ Thế rồi, sau khi chúc phúc cho cha mẹ Hài nhi, ông nói với Maria một lời tiên tri đau buồn, tương phản với niềm vui được bày tỏ trong Bài Ca: “Này, người con của bà đây…ông loan báo cảnh “chia rẽ”, sẽ có sự chia lìa vì Đức Giêsu: những kẻ ủng hộ Người thì người sẽ là sức mạnh vực họ chỗi dậy, những ai chống đối người, thì Người khiến họ phải “vấp ngã”. Bởi lẽ, R.Meynet chú giải “Chúa không áp đặt ơn cứu độ của người cho ai cả; người chỉ đưa ra, chỉ “dành sẵn cho muôn dân”, cho mọi dân tộc cũng như cho Israel. Người chỉ kêu mời người ta đón nhận trong tự do. Nhưng rnọi người đều sẽ phải quyết định. Đức Giêsu không phải là một chứng cứ không thể phi bác người là một dấu chỉ trước niềm tin và tự do của con người. Nhiều người trong Israel sẽ từ chối Người, nhưng những người khác sẽ chấp nhận đi theo Người. Nơi các dân tộc cũng thế thôi. Mọi người sẽ bị phân rẽ, ngay cả giữa cha mẹ mình, ngay cả Đức Maria cũng sẽ phải chịu thử thách ấy. Sự ngạc nhiên của cha mẹ Người là sự ngạc nhiên của lòng tin trộn lẫn với những thắc mắc và sự hài lòng trước những biến cố bất ngờ này. Trước xì-căng-đan của thập giá, lòng tín của Đức Maria cũng như của tất cả các môn đệ đều sẽ phải trải qua cơn xâu xé dày vò” (“L’evangile se lon saint lúc – Analyse rhétorique”. Cerf, trang 40).
Và này đây một nhân vật khác, bà Anna, mà Luca gọi là “nữ ngôn sứ”. J. Potin viết: “”Bà cũng là hình ảnh người phụ nữ thánh thiện của Kinh Thánh. Bà kết hôn từ thuở niên thiếu, nhưng có lẽ chịu phận son sẻ, giống như bà mẹ của Samuen đã một thời hiếm muộn; bà ở goá để tưởng nhớ chồng, những ăn chay cầu nguyện, sớm hôm thờ phụng Thiên Chúa trong đền Thờ. Qua bà, cả một đoàn lũ đông đảo các phụ nữ thánh thiện Israel đang dâng lời cảm tạ Thiên Chúa vì từ nay Người khởi sự thực hiện việc giải thoát dân Người” (“Jésus, l’histoire vraie”, Centurion, trang 95).
Phần cuối câu truyện không quên nhắc lại việc cha mẹ Đức Giêsu trung thành tuân thủ Lề Luật. Rồi bằng ít lời vắn gọn, Luca tóm kết tất cả cuộc đời thơ ấu của Đức Giêsu ở Nagiarét như sau: “Khi hai ông bà đã làm xong mọi việc như Luật Chúa truyền, thì trở về nơi cư ngụ là thành Nagiarét, miền Galilê. Còn Hài Nhi, ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ơn nghĩa cùng Thiên Chúa”.
Ơn khôn ngoan mà Hài Nhi được tràn đầy, chẳng bao lâu nữa người ta sẽ thấy biểu lộ trong trình thuật tìm gặp lại con trong Đền thờ (Lc 2,46-47).
BÀI ĐỌC THÊM.
- “Một khởi đầu mới mong manh”.
(L. Sintas, trong “Parole du Dteu pour la méditation ét l’homélie. Năm B”, Médiaspaul. trang 22-23).
Để ghi nhớ việc tổ phụ Abraham hiến tế con đầu lòng cho Thiên Chúa, Luật truyền cho mọi con trai đầu lòng phải được hiến dâng cho Chúa (…). Maria và Giuse tuân thủ Luật Chúa truyền. Vì hai ông bà nghèo, nên dâng một cặp bồ câu non làm của lễ.
Hôm nay nghi lễ hiến dâng này có một tầm mức thật là độc đáo. Nếu đúng là mọi Hài Nhi ra đời đều là ơn huệ của Thiên Chúa mà mọi cha mẹ phải nhìn nhận và vui mừng, thì điều đó càng đúng biết bao đối với trường hợp của Hài Nhi Giêsu. Không ai trong số những người được trông thấy Maria và Giuse tiến vào Đền thờ hôm ấy, hiểu được điều ấy. Các môn đệ, các thánh sử thực ra chỉ hiểu rõ điều này sau khi Chúa phục sinh. Chỉ tới lúc ấy các ông mới nhận ra sự cao cả lạ lùng của Đức Giêsu, Đấng các ông đã sống kề cận trong ba năm qua. Sự cao cả lạ lùng đó Đức Giêsu đã có từ lúc đức Maria mang thai và sinh ra Người, dầu rằng lúc đó còn bị che giấu. Chỉ sau biến cố phục sinh, các ông mới có thể viết Tin Mừng về thời thơ ấu của Đức Giêsu là làm nổi bật được tính cách độc nhất vô nhị của Người.
Nơi bản thân ông Simêon, Luca như đọc được một bản tóm tắt toàn bộ mầu nhiệm ấy. Simêon là một con người được nhào nặn trong lòng tin của Israel. Nếu ông được coi là một người công chính, thì điều đó có nghiã là nơi ông, người ta gặp được sự thánh thiện của những chính nhân đầy lòng tin. Ông giữ một vị trí chính đáng trước mặt Thiên Chúa, trước lề luật của Thiên Chúa, cũng như trước mặt mọi người. Bởi được viết sau biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống, nên Luca có thể gọi đích danh nhiệt tình thúc đẩy ông Simêon lên Đền Thờ, là sức mạnh dun dũi của Thánh Thần. Chúa Thánh Thần được giới thiệu ở đây như là sức mạnh duy nhất kiến tạo nên dân Chúa, dẫn dắt dân trong lòng tin (…). Sự hiệp nhất sống động giữa Cựu ước và Tân ước được biểu lộ ra bằng một biến cố. Một ông già mà cả đời đã được nuôi dưỡng trong lòng tin của tổ phụ Abraham giờ đây tiến đến trước Đấng Mêsia của lời hứa và được khao khát từ bao đời. Ông già ấy giờ đây ẵm bế trên tay mình Đấng Mêsia kia và hát lên-lời ca chúc tụng và tri ân Thiên Chúa:
Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi (…).
Ông già ấy có thể qua đi. Vậy thì ngọn lửa thiêng kia phải được trao lại cho ai? Trao cho một hài nhi bé bỏng. Điều này muốn nói lên rằng giai đoạn đầu mới lạ này quả là mong manh bé nhỏ. Nước Thiên Chúa giống như một hạt giống dù là loại hạt nhỏ nhất, nhưng vẫn hứa hẹn sẽ trở nên một cây to lớn. Nó cũng nói lên tầm quan trọng của Thánh Gia trong vai trò được trao phó và gìn giữ hạt giống mỏng manh kia. Quả là mong manh bé nhỏ khi toàn bộ thế lực sự ác sẽ ập đến tấn công hạt giống ấy. Và ông Simêon cũng nói cho Maria hay một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà. Cuộc khổ nạn đã có mặt ngay từ đây rồi. Phải, người ta sẽ chia rẽ vì hài nhi này. Trẻ ấy sẽ làm cho nhiều người phải vấp ngã. Thực tế cho thấy hận thù ghen thét dường như toàn thắng. Những thù địch của Đức Giêsu sẽ thắng được Người. Họ sẽ kết tội và đóng đinh Người.
Tuy nhiên, cũng chính Giêsu ấy sẽ làm cho nhiều người được chỗi dậy. Phục sinh đã được loan báo và ơn cứu độ của Thiên Chúa sẽ đem đến một cuộc phục hồi lớn lao vô cùng. Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ Chúa đã danh sẵn cho muôn dân.
Đó chính là lý do khiến nữ ngôn sứ Anna, lúc ấy cũng tới nơi để cùng hát lên những lời tán tụng Thiên Chúa với ông Simêon.
- “ Trung tín với thần khí”
(Đức Cha L.Daloz, trong “diệu a visité son peuple”; Desclée de Brouwer, trang 21-22).
“Để chu toàn các điều Luật truyền, cha mẹ Đức Giêsu đem Người lên Đền Thờ dâng tiến cho Thiên Chúa, và dâng của lễ nghèo hèn là “một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non” dành cho việc thanh tẩy Đức Maria. Được Thần Khí thúc đẩy, ông Simêon lên Đền Thờ gặp hai ông bà. “Ông Simêon là người đã được Thánh Thần linh báo cho biết là ông sẽ không thấy cái chết trước khi được thấy Đấng Kitô của Đức Chúa? Hoạt động của thần Khí là sợi đây nối kết mọi hoàn cảnh xảy ra khi Đức Giêsu giáng sinh. Công trình Thần Khí thực hiện thì sung mãn, phong phú và hưng phấn. Câu truyện trong hai chương đầu của Tin Mừng Luca mang dấu ấn rõ rệt về hoạt động của Thần Khí. Những biến cố luôn hàm ý về tương lai, và người ta đã linh cảm được sứ mệnh phổ quát của Đức Giêsu. Những nhân vật như Maria, Dacaria, Êlisabét, Simêon và nữ ngôn sứ Anna đều là những người loan báo ơn giải thoát mà hạt giống đã được chôn vùi trong thế giới chúng ta. Các ngài đều làm chứng rằng ơn cứu độ đã tới và hết sức vui mừng. Thần Khí hoạt động dựa trên các ngôn sứ, Thần Khí ấy của Thiên Chúa tràn đầy vũ trụ, đến thực hiện các lời hứa và ban ơn thông hiểu. Qua miệng ông Simêon, Thần Khí tỏ cho thấy ánh sáng đang đi vào thế giới và người Con của Đức Maria nắm giữ vai trò quyết định. Người con ấy sẽ là dấu hiệu cho người ta chống đối, khi phanh phui ra những tranh cãi của nhiều tâm hồn. Chúng ta hết thảy đều liên can tới điều mạc khải này vì nó cũng phanh phui những tranh chấp trong tòng ta. Cũng Thần Khí ấy của Thiên Chúa còn thâm nhập vào nơi sâu thẳm của bản thân ta và thúc đẩy ta, phải nhận biết Đấng ban ơn cứu độ. Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại ”… Chỉ mình Thần Khí mới có thể mở mắt ta đón nhận ánh sáng này. Như ông già Simêon, như nữ ngôn sứ Anna, tâm hồn ta phải biết lắng nghe và nhạy bén với làn gió âm thầm của Thần Khí. Như vậy, chúng ta mới có thể đón nhận Đức Kitô – Anh sáng. [Mục Lục]
TRÌNH DÂNG CHÚA GIÊSU TẠI ĐỀN THỜ
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Theo luật Môisen”: người ta có thể thắc mắc tại sao Luca nhấn mạnh quá nhiều đến việc Thánh Gia hoàn tất các nghi thức Do thái. Nếu nhớ Luca là môn đệ của Phaolô, ta sẽ tìm ra được lý do tuyệt diệu trong suy tư sau đây của thư Galata: “Khi thời viên mãn đến, Thiên Chúa đã sai Con của Ngài, sinh bởi người nữ, sinh dưới quyền Lề luật, để giải phóng những kẻ ở dưới quyền Lề luật, ngõ hầu ban quyền nghĩa tử: cho ta. Và bởi vì anh em là nghĩa tử, nên Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con Ngài đến trong lòng anh em, chính Thần khí kêu lên: Abba, Cha ơi! Cho nên anh em không còn là nô lệ, nhưng là con; mà nếu là con, thì cũng là kẻ thừa tự thể theo (ý của) Thiên Chúa” (14,4-7). Bản văn này làm sáng tỏ Tin mừng thời Thơ ấu cách lạ lùng thật. Vì chẳng có nơi nào cho thấy rõ ràng Chúa Giêsu thật là Con Thiên Chúa, sinh bởi người nữ; chẳng có nơi nào mà Tin mừng nhấn ngạnh mãnh liệt việc Người tuân giữ các quy khoản Lề luật như đoạn văn hôm nay.
“Họ phải được thanh tẩy”: Theo luật Môisen trong Lv 12 thì sau khi sinh con trai, người mẹ trở nên ô uế trong 7 ngày xét theo luật phụng tự (nghĩa là không được chạm đến vật gì đã thánh hiến cũng như tham dự phụng vụ tại Đền thờ) và tiếp đó phải ở riêng trong nhà 33 ngày nữa. Sau thời gian thanh tẩy theo nghi thức ấy bà phải đến Đền thờ dâng một của lễ. Người ta ngạc nhiên khi nghe thánh sử bảo: Họ phải được “thanh tẩy”, vì chỉ mình người mẹ là cần chuyện này mà thôi. Có thể giải thích như sau: họ phải được thanh tẩy. Nghĩa là việc thanh tẩy này có liên can tới họ; thanh tẩy là điều bắt buộc đối với một mình người mẹ do việc sinh con ra, là việc sinh nở thì vừa liên hệ tới bà mẹ và liên hệ tới đứa bé. Người
ta cũng có thể ức đoán rằng Lc quan niệm lễ nghi thanh tẩy như được thi hành trong thực tế, nghĩa là có kèm theo nghi thức trình dâng đứa trẻ. Nếu thế thì đây là một lễ nghi tại Đền thờ trong đó Maria dâng các lễ tế tiên liệu cho việc thanh tẩy, đồng thời lợi dụng cơ hội để trình dâng Hài Nhi Giêsu. Nhưng dù sao chắc một điều là Giuse không dính dáng gì đến việc “họ được thanh tẩy”, vì Lề luật chẳng hề buộc người chồng phải thanh tẩy.
“Và khi đến ngày, theo luật Môisen. họ phải được thanh tẩy, thì họ đem người lên Giêrusalem”: Hai chữ “họ” của câu này xem ra giống nhau, nhưng văn mạch cho thấy là không phải vậy; chữ “họ” thứ nhất nhắm Maria và Giêsu, chữ “họ” thứ hai nhắm Maria và Giuse; câu văn hơi sai đôi chút. Vì Luca quá muốn gãy gọn mà lại quên lưu ý là các đại danh từ số nhiều đi liền nhau đây không chỉ cùng nhân vật. Tuy nhiên ý nghĩa cũng khá rõ ràng. Việc trình dâng Hài Nhi tại Đền thờ này không có trong lề luật. Chỉ việc chuộc đứa bé là truyền buộc thôi. Nhưng Luca chẳng hề nói qua một tiếng đến lễ nghi chuộc Chúa Giêsu đó, mà chỉ đề cập tới việc dâng trình Người. Ông lại còn nhấn mạnh đến việc trình dâng này bằng cách liên kết vào đó hai văn từ của lề luật mà thật ra chỉ liên hệ tới việc chuộc con. Làm như vậy là để mặc cho việc trình dâng một ý nghĩa long trọng: dâng hiến và thánh hiến. Thành thử đối với Luca, việc long trọng trình dâng Chúa Giêsu cho Giavê hôm nay tương đương với việc chu toàn cách thiêng liêng nguyên tắc pháp luật của Xh 13, theo đó mọi con trai đầu lòng (và nhất là Đứa Con đầu lòng này) đều thuộc về Giavê. “Một người tên là Simêon” Tên này rất thông dụng thời đó. Có kẻ đã đồng hóa ông Simêon với một giáo sĩ tên Simêon, con của Hillel và cha của Gamaliel, cả ba đều là những đại giáo sĩ ở Giêrusalem. Nhưng việc đồng hóa này không bảo đảm. Lời kinh Nunc dimittis quả cho thấy Simêon là một cụ già, song Luca chẳng quả quyết điều này một cách minh nhiên. “Niềm an ủi của Israel”: Từ Is 40, 1; 51, 12; 61,2… từ ngữ này ám chỉ thiên sai thời đại.
“Thánh Thần ở trên ông”: Theo ngôn ngữ Cựu ước (Ds 11, 17.11,25.29; 2V 2, 15; Is 11,2; 41, 1; Ed 11,5), thành ngữ này muốn nói Simêon là ngôn sứ.
“Đức Kitô của Chúa”: Đây là tước hiệu cổ truyền của Đấng thiên sai trong Cựu ước Hy lạp (1Sm 24,7,11; 26, 9. 11. 16.23; 2 Sm 1, 14. 16…) và tương đương với tước hiệu “Đấng Messia của Giavê”. Đừng lẫn lộn với thành ngữ Kitô Chúa” (thành ngữ riêng biệt của Lc trong Tin mừng, x. 2, 11) mà người ta thấy trong Ac 4,20 bản Hy lạp) và Tv Salomon 17,36 cũng như trong Phaolô nhiều lần về sau. Tước hiệu “Kitô Chúa” này rõ ràng có một ý nghĩa siêu việt mà những đồng hóa Đấng Messia với Giavê. Nó giàu nghĩa hơn tước hiệu “Đức Kitô của Chúa”.
“Cha mẹ”: Vì đã nhấn mạnh nhiều đến việc đầu thai đồng trinh của Chúa Giêsu, nên Lc không ngần ngại dùng chữ. “cha mẹ Người” (x. cc. 41.43) và ngay cả “cha Người” (cc. 33.48). Các sao lục viên vẫn thường thay các hạn từ vừa nói bằng chữ Maria và Giuse để làm nổi bật sự kiện Chúa Giêsu chỉ có một Cha ở trên trời.
“Giờ đây, lạy Chúa…”: Sấm ngôn nơi cc.29-32 này tương ứng với thánh ca Dacaria về Gioan Tẩy Giả trong Lc 1,67-79; nhưng thay vì cảm hứng từ các Thánh vịnh, ở đây sấm ngôn mượn lời của sách Isaia đệ nhị, phần thứ hai, và công bố rằng trong Chúa Ciêsu, ơn cứu độ đã được ban tặng. Thánh thi này đã được dùng trong kinh nguyện phụng vụ của Giáo Hội (kinh tối) từ thế kỷ V (x. Hiến pháp Sứ đồ 7,48).
“Theo lời Ngài”: Các chữ này làm ta liên tưởng tới việc Thánh Thần đã mặc khải (c.26) cho Simêon biết ông sẽ được nhìn thấy Đấng Messia trước khi lìa đời.
“Anh sáng rạng soi dân ngoại”: Việc cứu rỗi dân ngoại lần đầu tiên được loan báo ở đây trong tác phẩm Lc. Nhưng nó chỉ cược công bố cách minh nhiên rõ ràng từ sau mặc khải phục sinh (Lc 24,47).
“Vinh quang của Israel dân Ngài”: Tước hiệu này rất đặc biệt. Nó đưa ta về đoạn Xh 40,35: “Đám mây bao phủ nhà tạm và Vinh quang Giavê lấp đầy chỗ Thần cư “. Đây là việc Vinh quang đi vào trong cung thánh; và Vinh quang chính là Giavê. Ở đây cũng vậy, cũng nói về Vinh quang trong cung thánh, nhưng Vinh quang được mạnh dạn đồng hóa với Chúa Giêsu: người là Vinh quang. Có một dấu chứng nói lên ý tưởng táo bạo này là: theo quan niệm Cựu ước, ai đã thấy Giavê (Xh 19,21; 33,20; Lv 16,2; Ds 4,20) hoặc chỉ nghe Ngài nói thôi (Xh 20,10, Đnl 5,24-26; 18,16) đều phải chết. Thế mà trong giai thoại trình dâng Chúa Giêsu đây, các thành ngữ “thấy cái chết” (2,26), “thấy Chúa Kitô của Chúa” (2,26), thấy… Vinh quang” (2,30.32) lại liên quan mật thiết với nhau. Môisen đã không vào lều tạm vì sợ chết (Xh 40,35). Simêon thấy “vinh quang” và có thể lìa trần. Theo lối chơi chữ trong bản văn, thì ông “thấy” Vinh quang đồng thời với cái chết.
“Cha mẹ người đều kinh ngạc”: Lc cố ý cho thấy sau các lần mặc khải đầu tiên ở 1,31-35 và 2, 11. 14, cha mẹ Chúa Giêsu vẫn chưa quán triệt hết mầu nhiệm của Người.
“Người có mệnh làm cớ cho nhiều người bổ nhào và chỗi dậy trong Israel”: Chúa Giêsu là nhân vật bắt ta phải quyết định chọn lựa. Trong Người hoàn tất cái sấm ngôn hình như tiềm ẩn trong các lời Simêon nói: “Đối với các người, Ngài (Giavê) sẽ là cơ hội thánh hóa, là đá vấp phạm, là thạch nham nên dịp trượt ngã cho đôi nhà Israel, là tròng lưới là là cạn bẫy cho dân Giêrusalem. Lắm người sẽ trượt nhà trên đó; chúng ngã lăn và tan xương, chúng sẽ sa bẫy và bị chụp” (Is 8, 14). Nhưng lời tiên tri sau đây cũng đúng cho Chúa Giêsu: “Này Ta đặt trên Sion một viên đá hoa cương, viên đá góc quý giá làm nền. Ai cậy tin vào viên đá này sẽ không nao núng” (Is 28,16). Khi buộc mỗi người phải chọn theo hay chống lại người, Chúa Giêsu sẽ là dấu chỉ gây cớ vấp phạm. “Và hồn bà, một mũi gươm sẽ đâm thâu qua”: Câu này từ lâu đặt ra cho các nhà chú giải nhiều vấn đề lóc búa. Một số dựa theo Origène (Reuss, Bleek…) cho rằng lưỡi gươm là sự nghi ngờ sẽ đâm thâu suốt cuộc đời Maria, nỗi nghi ngờ về lai lịch sâu xa của Quý tử; nhưng lối chú giải này không mấy phù hợp với phần còn lại của Tin mừng là xem ra là một lối giải thích có tính cách tâm lý học vô bằng cứ. Lối giải thích cổ truyền (từ paulin de no le và thánh Augustin) đã xem lưỡi gươm chính là việc Maria hiệp thông và nỗi đớn đau của đứa con tử nạn. Lối giải thích này dĩ nhiên có thể chấp nhận, nhưng không chắc chắn. Quả thế, nó cắt đứt chuyển thông liên tục của bản văn và xem ra đưa vào đấy một dấu ngoặc (BJ và Nguyễn thế Thuấn đặt câu nói giữa hai gạch ngang) là như thế là ngược lại với thói quen của người sêmita. Tiếp đến, nó quá thu gọn tư tưởng vào cá nhân con người Maria, một điều xem ra ngược với nhãn giới của thánh sử, vì đối với ông cũng như đối vật mọi tác giả Tân ước, tâm lý các nhân vật không đáng lưu tâm bằng vai trò của họ trong lịch sử cứu rỗi; người ta thấy rõ điều này trong các quang cảnh của thời Thơ ấu, trong đó Maria bao giờ cũng chỉ đóng một vai trò phụ thuộc sánh với vai trò Chúa Giêsu. Sau cùng lối giải thích cổ truyền đây quá quy chiếu về đồi Canvê mà loại bỏ mọi cái khác.
Gần đây, việc chú giải câu này đi theo một chiều hướng khác biệt. Trong Cựu ước, hình như lưỡi gươm vẫn thường được xem như là biểu tượng của sự đối kháng và chia rẽ (Ed 12. 14). Hơn nữa, Isaia lại còn bảo Thiên chúa đã biến miệng Người tôi tớ thành một “lưỡi gươm sắc bén” (49,2). Hình ảnh này đã được Khải Huyền lấy lại khi nói về Chúa Kitô (1.16; 2, 12. 16; 19, 15.21). Khi nhớ rằng viên Ky mã trong Khải huyền, mà miệng võ trang bằng một lưỡi gươm sắc bén, được gọi là “Ngôi lời Thiên Chúa” (Kh 19, 13) và khi lưu ý rằng Is 49,2 đi trước Is 49,6 là đoạn gọi Người Tôi tớ là “ánh sáng muôn dân”, thì ta phải lập tức nghĩ rằng cả hai câu này đã có trung tâm trí lực khi ông viết các câu 32.35a và rằng lưỡi gươm phân rẽ Israel làm đôi (c.34) chính là Lời mặc khải đến trong Chúa Giêsu, lời cứu độ nhưng cũng là lời phán xét (x. Dt 4, 12). Thế mà hình như chắc là trong hai chương đầu này. Luca trình bày Maria như là Nữ tử Sion, nghĩa là Israel nhân cách hóa (x. chứng minh dài dòng của Laurentin, sđd, tr.148- 163). Theo viễn ảnh như vậy, có thể Lc còn muốn tiếp tục việc nhân cách hóa này (trong quang cảnh trình dâng Chúa Giêsu và có lẽ rằng chính vì xét như là Nữ tử Sion mà Maria đã được Simêon ngỏ lời ở c.35a: trong con người của bà. Chính Israel sẽ bị gươm của Giavê xuyên thấu.
Lối chú giải này (của Sahlin. Black, Laurentin. Boismard, Benoit…) có lợi điểm là làm cho c.35a thuần nhất với văn mạch của nó. Thay vì nằm trong ngoặc đơn, thì câu này trở thành một khâu trong chuỗi khai triển; nó t.iếp tục tư tưởng của câu trước và chuẩn bị cho tư tưởng kế tiếp theo. Chúng ta đã thấy mối liên lạc giữa c.34 và 35a: cơn khủng hoảng gây ra trong Israel bởi “dấu chỉ vấp phạm” được mô tả, theo Edêkien, như lưỡi gươm Giavê đâm thâu tâm hồn (dân Chúa). Còn c.35b thì đưa ra một kết luận ăn khớp: thử thách gây nên do việc Chúa Giêsu đến rồi đây sẽ vạch trần bí ẩn của mọi tâm hồn khi đòi con người phải chọn lựa theo hay chống Chúa Giêsu.
Được hiểu một cách ăn khớp với nhau như thế, cc.34-35 sẽ cân xứng tuyệt vời với các cc.30-32. Lời tiên tri của Simêon phân chia thành một bức song bình: một bên là việc chiếu soi dân ngoại và ơn cứu độ phổ quát, vốn tựng trưng cho vinh quang Israel; bên kia là cơn khủng hoảng trong chính Israel, cơn khủng hoảng sẽ khiến nhiều con cái tuyển đến ngã gục. Đó là tất cả bi kịch của lịch sử cứu rỗi, được Lc trình bày trong Tin mừng và sách công vụ; tấm bi kịch này được Simêon loan báo ở đây cách vắn tắt nhưng vô cùng mạnh mẽ.
Để biện minh cách tiêu cực cho lối giải thích vừa nêu, chúng ta hãy đưa ra một bắt bẻ quan trọng đối với lối giải thích cổ truyền. Trong Tin mừng Luca, chẳng có chỗ nào nói đến việc Maria hiệp thông vào số phận đau đến của Chúa Giêsu cả. Dĩ nhiên người ta có quyền giả thiết bà đã hiệp thông một cách nào đó. Nhưng nếu Luca đã muốn ngụ ý điều này khi đặt trên miệng Simêon lời tiên tri bí ẩn, thì hẳn sau đó ông đã cho thấy việc hiệp thông được thể hiện trong nhiều sự kiện rõ rệt. Thế mà Lc đã chẳng nhắc đến tên Trinh nữ trong số các người đàn bà theo dõi việc đóng đinh thập giá.
“Ngày đêm tham dự phụng tự (Nguyễn Thế Thuấn: “Bà không rời khỏi đền thánh, thờ Chúa ngày đêm”): Nét này, mà người ta còn gặp lại trong Lc 18,7; Cv 20,31; 26,7, hình như hơi lý trưởng hóa. Vì dù sao, các phụ nữ không được phép ở lại đêm trong khuôn viên Đền thờ.
“Họ trở về Galilê, đến Nagiarét…”: Đây chỉ là một lối tóm tắt, hoàn toàn theo kiểu của Luca. Matthêu cho thấy Thánh Gia đã ở lại Bêlem khá lâu (Mt 2,11), và thời hạn cuộc lưu trú này tùy thuộc vào ngày giờ gán cho cuộc thăm viếng của các đạo sĩ. Dựa vào Mt 2, 16, có người bảo là hai năm. Nhưng dầu giả thiết thế nào chăng nữa, thì việc Trình dâng tại Đền thờ cũng phải xảy ra trước cuộc Hiển Linh. Vì khó cho rằng Giuse, mà trong suốt thời thơ ấu của Chúa Giêsu luôn luôn tỏ ra khôn ngoan thận trọng, ai đi lôi kéo cơn lôi đình của Hêrôđê xuống trên đứa bé. Thành thử việc trở lại Nagiarét mà Luca nói ở đây trước tiên giả thiết việc lui về Bêlem rồi chạy trốn đến biên giời Ai Cập (hợp với Mt 2,13-15), và trùng hợp với việc định cư tại Nagiarét mà Mt 2,19-23 đã nói.
KẾT LUẬN
Với nhiều điển tích, nhiều ám chỉ Kinh thánh, Luca cho thấy việc Trình dâng Chúa Giêsu tại Đền thờ khai mào thời đại thiên sai, cái thời đại đã được các ngôn sứ xưa loan báo và được đánh dấu bằng việc Vinh quang của Giavê long trọng tiến vào Đền thờ.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
- Từ thuở ấu thơ, ngay cả khi chưa nói được. Chúa Giêsu đã hoàn tất các lời Kinh thánh. Hôm nay, Ngài thực hiện lời hứa đã ban cho Đanien (9,21-24), cho Malaki (3,1) và cho biết bao ngôn sứ khác ngày xưa. Hôm nay, trong con người trẻ bé Giêsu, chính Thiên Chúa trở lại cung thánh bị bỏ phế của Ngài. Vì, dù tội Israel thế nào chăng nữa, Thiên Chúa vẩn luôn trung thành với lời mình đã hứa. Sự thất trung của Israel chỉ làm trì hoãn việc thực hiện các lời hứa này, chứ không thể hủy bỏ chúng được. Trong cuộc đời chúng ta cũng thế. Ngày chúng ta được Rửa tội, Thiên Chúa đã nhận chúng ta làm nghĩa tử Ngài. Rồi dù chúng ta có lắm bất trung, Ngài vẫn không khi nào ruồng rẫy. Dù tội chúng ta có xua đuổi Ngài ra khỏi cung thánh lòng ta, Ngài vẫn tìm mọi cách giúp chúng ta ăn năn thống hối. Hôm nay chúng ta hãy mở rộng cung thánh chúng ta cho Ngài, hãy mời Chúa Kitô đã từ nay vinh hiển đến ở mãi trong cuộc đời chúng ta, hãy cùng với Người tận hiến bản thân cho Thân phụ chí hảo của Người, để chúng ta cũng được trở nên “ánh sáng” (2,32) chiếu soi hết mọi người sẽ gặp chúng ta.
- Hành động của Thánh Thần có mặt khắp cả bài Tin mừng hôm nay. Chính Thánh Thần ở trên Simêon (c.25) đã mặc khải cho ông biết ông sẽ thấy Đấng Messia trước khi qua đời (c.26), đã thúc đẩy ông vào Đền thờ ngay lúc Chúa Giêsu đến (c.27). Đối với chúng ta cũng vậy, chúng ta có thể sống dưới sự hoạt động của Thánh Thần cách thường xuyên nếu chúng ta ở trong ơn nghĩa thánh và biết chăm chỉ tuân theo những thúc đẩy bên trong của Ngài. Thánh Thần cũng có thể trở nên trong chúng ta một nguồn sáng giúp ta hiểu rõ hơn đức tin và bổn phận chúng ta, một nguồn sức mạnh và năng lực thiêng liêng giúp ta can đảm sống trọn đời môn đồ Chúa, một nguồn linh ứng cho lời cầu nguyện cũng như cho cuộc sống chúng ta thường ngày.
- Simêon và Anna đã suốt đời chờ đợi giờ được cho xem thấy Chúa Kitô. Đối với chúng ta, họ là những tấm gương hy vọng và trung tín. lòng trung tín của họ đã được ân thưởng: họ được niềm vui bồng ẵm trên tay “Ang sáng dân ngoại”, “Vinh quang Israel”, đích thân Thiên Chúa. Chúng ta cũng được hồng ân như vậy mỗi lần đi rước lễ. Chúng ta hãy chuẩn bị tiếp lấy ân sủng này trong sự trung tín mong chờ và đón nhận nó với tất cả tâm tình biết ơn như Simêon và Anna.
- Maria và Giuse đã chấp hành hoàn hảo mọi yêu sách của Lề luật Môisen. Các đấng lại vâng phục dẫn độ còn thi hành thói quen đạo đức là Trình dâng con trai đầu lòng tại Đền thánh, một điều là luật không đòi hỏi. Sở dĩ các đấng đã đi quá Lề luật như thế, đó là vì các đấng đã tuân phục với tình yêu chứ không vì sợ hãi.
- Maria, thụ tạo tinh tuyền nhất trong lịch sử nhân loại, đã khiêm tốn chấp hành nghi thức thanh tẩy. Phần chúng ta là những người đã bị tội lỗi làm cho ra vô cùng ô uế, chúng ta cũng hãy khiêm tốn lãnh nhận bí tích cáo giải để được thanh tẩy tâm hồn. Cho đến tận thế, Chúa Giêsu vẫn là dấu chỉ vấp phạm (c.34) vì buộc con người phải chọn lựa theo hay chống lại Ngài. Phần chúng ta, hãy làm lại việc dấn thân theo Ngài vô điều kiện. Nếu chúng ta trung thành với Ngài, thì “ân sủng Thiên Chúa cũng sẽ ngự xuống” (c.40) trên chúng ta và đổ đầy cuộc đời chúng ta niềm vui và ánh sáng.
- Maria và Giuse đã ngạc nhiên khi nghe những điều Simêon và Anna nói về Quý tử. Sở dĩ ngạc nhiên, là vì các Đấng chưa hoàn toàn quán triệt mầu nhiệm sâu xa bao phủ con mình. Dù được sống thân mật với Chúa Giêsu, các đấng cũng phải tiến tới trong đức tin. Nhưng đức tin các đấng được đào sâu vì các đấng “gẫm suy mọi sự ấy trong lòng” (2,19). Đối với chúng ta, cũng chẳng có gì lạ nếu chúng ta không hiểu hết mầu nhiệm của Thiên Chúa. Dù đã qua 20 thế kỷ, Giáo Hội vẫn luôn luôn tiếp tục đào sâu mầu nhiệm Chúa Kitô. Như Chúa Kitô, đức tin chúng ta phải lớn lên, triển nở trong sức mạnh và ân sủng. Đức tin chúng ta, chính là sự tăng trưởng liên tục và dần dần của Chúa Kitô trong chúng ta. [Mục Lục]
Lc 2, 21-24: Các nghi lễ được tuân giữ
Ở đây, chúng ta thấy gia đình Chúa Giêsu đã tuân thủ ba nghi lễ cổ mà người Do Thái phải giữ.
1) Cắt bì. Mỗi con trai Do Thái phải chịu cắt bì ngày thứ tám, sau khi sinh. Nghi lễ này quan trọng đến nỗi có thể làm vào ngày sabát, là ngày mà luật cấm làm hầu hết các công việc không tuyệt đối cần thiết, và như chúng ta đã biết, trong ngày đó đứa trẻ được đặt tên.
2) Chuộc con đầu lòng. Theo luật (Xh 13,2) thì mọi con đầu lòng dù người hay súc vật, đều biệt riêng ra cho Chúa. Luật này có thể là sự tỏ lòng biết ơn Thiên Chúa đã ban cho loài người sự sống hay cũng có thể là dấu tích của thời kỳ trẻ con còn được dâng cho các thần. Dĩ nhiên nếu tục đó được tuân thủ sít sao thì sự sống không còn trên mặt đất. Vì thế mới có nghi lễ chuộc con đầu lòng (Ds 15,16). Người ta quy định rằng: dâng một số tiền năm shekel -chừng 15 shillings- cha mẹ có thể chuộc lại đứa con từ nơi Chúa. Số tiền đó phải cho các tư tế và không thể nộp trước 31 ngày sau khi sinh đứa trẻ và cũng không trì hoãn lâu.
3) Lễ Tẩy sạch sau khi sinh nơ. Khi người đàn bà sinh con trai thì người mẹ bị ô uế trong 40 ngày, nếu con gái thì mẹ phải chịu ô uế trong 80 ngày. Người mẹ có thể đi lại trong nhà, làm công việc hàng ngày, nhưng không thể vào Đền Thờ hoặc tham dự các nghi lễ tôn giáo (Lv 12). Khi thời hạn đó chấm dứt, người mẹ phải vào Đền Thờ, đem theo một con chiên làm của lễ và một bồ câu non làm của lễ chuộc tội. Đó là một của lễ khá tốn kém, vì thế luật cũng định (Lv 12,8), nếu người mẹ không thể mua một con chiên thì có thể đem đến một con bồ câu thứ hai. Của lễ bằng hai bồ câu thay vì một con chiên và một con bồ câu gọi là “Của Lễ Của Người Nghèo”. Maria đã dâng của lễ đó. Một lần nữa, chúng ta thấy rằng Chúa Giêsu sinh ra trong một gia đình nghèo, không chút sang trọng, ở đó mỗi đồng xu cũng phải được tính kỹ, ở đó các phần tử trong gia đình biết rõ những khó khăn của cuộc sống và những gian nan của kiếp người. Khi nào đời sống trở nên bế tắc cho chúng ta, chúng ta nên nhớ rằng Chúa Giêsu đã nếm trải đủ mọi mùi cay đắng đó rồi.
Ba nghi lễ này là nghi lễ cũ và lạ, nhưng cả ba cùng nói lên một niềm tin: con cái là phúc lộc Chúa ban. Những người khắc kỷ nói con cái không phải được ban cho cha mẹ mà là cho mượn. Trong các ơn phúc Chúa đưa đến, không có ơn nào khiến ta mang nhiều trách nhiệm với Chúa cho bằng con cái.
Lc 2, 25-35: Giấc mơ thành tựu
Không có người Do Thái nào không coi dân tộc mình là dân tộc được ưu tuyển. Nhưng họ biết rõ bằng phương tiện tự nhiên, đất nước của họ không thể đạt được tầm cỡ tuyệt vời trên thế giới mà họ chỉ tin đó là phần phúc cho họ. Đa số họ tin rằng vì Do Thái là tuyển dân nên một ngày kia họ sẽ làm bá chủ thế giới. Nhiều người tin rằng vào ngày đó sẽ có một vĩ nhân, một anh hùng từ trời giáng trần; nhiều người khác tin rằng sẽ có một vị vua bởi dòng dõi Đavít và mọi vinh hiển xa xưa sẽ trở lại; nhiều người khác tin chính Thiên Chúa sẽ trực tiếp bước vào lịch sử bằng những cách siêu nhiên. Nhưng ngược lại, cũng có một số ít người được gọi là “những kẻ yên lặng trong xứ”. Họ không mơ tưởng gì về sức mạnh và quyền thế, về quân đội với cờ bay trống giục, họ tin cậy vào một đời sống kiên trì cầu nguyện và lẳng lặng đợi chờ cho đến khi Thiên Chúa ngự đến. Suốt đời sống, họ trông đợi Chúa cách lặng lẽ và nhẫn nại. Simêon là một trong số những người đó, bằng đời sống cầu nguyện và thờ phượng, cứ khiêm nhường trung tín đợi chờ, ông trông mong được thấy người Thiên Chúa an ủi dân Ngài. Thiên Chúa đã hứa với ông qua Thánh Thần là ông sẽ không qua đời trước khi được xem thấy Đấng Xức Dầu của Ngài. Ông nhận biết vị vua đó nơi hài nhi Giêsu và ông mừng rỡ. Bây giờ ông sẵn sàng ra đi bình an và những lời của ông đã trở thành bài ca “Bây Giờ Xin Chết” (Nunc Dimittis), cũng là bài ca tuyệt tác của Hội Thánh.
Trong câu 34, Simêon cho một bản tóm lược về công việc và số phận của Chúa Giêsu.
1) Chúa Giêsu sẽ làm cớ cho nhiều người vấp ngã. Câu đó nghe lạ tai và khó chịu, nhưng đó là sự thật. Không phải Thiên Chúa đoán xét người ta cho bằng người ta tự đoán xét mình, và đoán xét của mỗi người là do phản ứng của họ đối với Chúa Giêsu. Nếu khi đối diện với sự nhân từ, thương yêu của Chúa Giêsu, họ mở lòng ra tiếp nhận tình yêu đó thì họ được ở trong vương quốc của Ngài. Nhưng nếu lòng họ cứ lạnh lùng cứng cỏi hoặc thù nghịch thì họ bị kết án. Có nhiều người chối bỏ Ngài, đồng thời không thiếu những người sẵn sàng nhận Ngài làm Chủ đời sống họ.
2) Chúa Giêsu sẽ làm cớ cho nhiều người được chỗi dậy. Triết gia Seneca nói rằng nhu cầu lớn nhất của loài người là được một bàn tay đưa xuống để nâng họ lên. Chính bàn tay Chúa Giêsu đã nâng vực con người lên khỏi đời sống cũ và đem vào đời sống mới, đem tội nhân khỏi vũng bùn tội lỗi và bước vào đời sống thánh thiện, ra khỏi những nhục nhã và bước vào chốn vinh quang.
3) Chúa Giêsu sẽ gặp nhiều sự chống đối. Đối với Chúa không có sự trung lập. Hoặc chúng ta tuân phục Ngài, hoặc đối nghịch với Ngài. Thảm kịch của đời sống là tính kiêu ngạo đã ngăn cản chúng ta thực hiện sự tuân phục dẫn đến chiến thắng.
Lc 2, 36-40: Tuổi già đáng yêu
Anna cũng là một trong số những người lặng lẽ trong xứ. Chúng ta không biết nhiều về bà, ngoài mấy câu Kinh Thánh này, nhưng bấy nhiêu cũng đủ để chúng ta có một bức họa về tâm tính bà.
1) Anna là một quả phụ. Bà đã từng nếm trải đau buồn nhưng lòng bà không hề cay đắng. Sự buồn rầu có thể đem đến cho chúng ta một trong hai điều: nó có thể làm chúng ta cứng lòng, cay đắng, uất hận, phản nghịch lại Chúa, hoặc làm chúng ta mềm mại hơn, dịu dàng hơn, nhân từ hơn. Nó có thể cướp mất lòng tin tưởng của chúng ta hoặc có thể giúp đức tin chúng ta đâm rễ sâu hơn, và trở nên bất khuất. Tất cả tùy thuộc cách chúng ta suy hiểu về Thiên Chúa. Nếu chúng ta nghĩ về Thiên Chúa như một bạo chúa thì chúng ta sẽ oán hận Ngài. Nếu nghĩ về Ngài như một người cha nhân từ thì chúng ta tin chắc rằng: tay của một người cha sẽ không làm cho con mình phải đổ một giọt nước mắt vô ích nào cả.
2) Bà đã già (84 tuổi) và không hề thôi hy vọng. Tuổi già cướp mất màu tươi thắm và vẻ cường tráng của thân thể chúng ta, nhưng còn tệ hại hơn, là năm tháng có thể giết chết sự sống trong tâm hồn chúng ta, đến nỗi bao hy vọng từng ôm ấp cũng chết lịm và chúng ta trở nên ảm đạm, ê chề, an phận thủ thường, không còn thiết tha điều gì nữa. Và điều đó cũng tùy thuộc vào cách chúng ta nhìn về Chúa: nếu chúng ta nghĩ rằng Chúa là một Đấng xa cách, không hề quan tâm đến chúng ta, chắc chắn chúng ta sẽ tuyệt vọng, Ngược lại, chúng ta tin Thiên Chúa có liên hệ mật thiết với cuộc sống chúng ta, Ngài điều khiển mỗi bước của chúng ta trên đường đời thì chúng ta sẽ thấy tương lai thật tốt đẹp. Tuổi tác, thời gian, sẽ không hề giết được hy vọng của chúng ta. Nhưng bà Anna làm sao để giữ vững niềm hy vọng đó?
- a) Bà không hề ngưng nghỉ trong việc thờ phượng. Bà dâng đời sống mình trong nhà Thiên Chúa. Thiên Chúa đã ban Hội Thánh của Ngài để làm mẹ chúng ta trong đức tin. Chúng ta đánh mất một kho tàng vô giá khi chúng ta không muốn thông công trong việc thờ phượng với dân Chúa.
- b) Bà hằng cầu nguyện không ngừng. Việc thờ phượng công cộng là quan trọng, nhưng việc thờ phượng riêng cũng quan trọng. Có người đã nói rất đúng: “Người nào biết cầu nguyện riêng tốt sẽ biết cầu nguyện chung tốt”. Năm tháng đã không đem cay đắng vào lòng Anna, không làm tan hy vọng của bà vì mỗi ngày bà biết kết hợp với Đấng vốn là Nguồn sức mạnh, và trong sức mạnh của Ngài, sự yếu đuối của chúng ta trở nên mạnh mẽ. [Mục Lục]
GƯƠNG SÁNG CỦA THÁNH GIA NA-DA-RET
- HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH:
Tin mừng ghi lại việc Đức Maria và Thánh Giuse nêu gương sáng cho các bậc cha mẹ trong việc tuân giữ Luật Thiên Chúa qua việc dâng Hài Nhi Giêsu cho Thiên Chúa trong Đền thờ. Tại đây Hài Nhi Giêsu đã tỏ mình là Con Thiên Chúa cho ông gìa Simêon và bà ngôn sứ Anna, đồng thời tỏ mình là phàm nhân trong hình hài một trẻ thơ yếu ớt phải tuân giữ Luật pháp Môsê.
CHÚ THÍCH:
– C 22-24: +Khi đã đến ngày lễ thanh tẩy của các ngài theo luật Môsê: Luật Môsê dạy rằng: đàn bà sinh nở bị nhơ uế nên cần được thanh tẩy trong Đền thờ. Vì Hài Nhi Giêsu là con trai nên Đức Maria phải lên Đền thờ làm lễ thanh tẩy vào ngày thứ 40 sau khi sinh theo như Luật dạy. +bà Maria và ông Giuse đem con lên Giêrusalem, để tiến dâng cho Chúa như đã chép trong Luật Chúa rằng: “Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là thánh, dành cho Chúa: Vì Thiên Chúa đã cứu các con trai đầu lòng của dân Do thái khỏi bị giết chết bên Ai cập trước biến cố Xuất Hành, nên sau này Luật Môsê qui định các con trai đấu lòng thuộc về Thiên Chúa và phải được dâng cho Thiên Chúa (x Xh 15, 2 và 12). +và cũng để dâng của lễ theo luật Chúa truyền, là một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu con: Theo luật Môsê (Lv 12,6-8) sản phụ phải dâng lễ vật để làm của lễ toàn thiêu và đền tội thay cho mình. Ở đây Maria dâng lễ vật một đôi chim câu, chứng tỏ ông bà thuộc thành phần nghèo. Việc dâng lễ vật này cho thấy Đức Maria có lòng khiêm tốn vâng phục Luật Chúa truyền dạy, dù Mẹ thụ thai và sinh con do quyền năng Thánh Thần, nên vẫn bảo tòan được đức trinh khiết.
– C 25-28: +Và này đây tại Giêrusalem, có một người tên là Simêon. Ong là người công chính và sùng đạo. Ong những mong chờ niềm an ủi của Ítraen, và Thánh Thần hằng ngự trên ông: Simêon là một người công chính và có lòng kính sợ Thiên Chúa thể hiện qua việc luôn tuân giữ Luật Môsê. Ong đang chờ đợi niềm an ủi của dân Itrael là Đấng Cứu Thế sắp được Thiên Chúa sai đến. +Được Thần Khí dun dủi, ông lên Đền Thờ vào lúc cha mẹ Hài Nhi Giêsu đem con tới để chu tòan tập tục Luật đã truyền liên quan đến Người: Simêon được Thánh Thần cho biết ông sẽ được nhìn thấy Đấng Cứu Thế trước khi nhắm mắt. Quả thật, chính Thánh Thần đã thực hiện lời hứa khi thúc đẩy ông lên Đền thờ đúng vào lúc cha me Hài Nhi đưa Người lên Đền thờ dâng cho Thiên Chúa.
– C 29-32: +Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này, được an bình ra đi. Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ, Chúa đã dành sẵn cho muôn dân. Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngọai, là vinh quang của Ítraen dân Ngài”: Khi bồng ẵm Hài Nhi trên tay, Simêon đã thốt lên bài ca mà ngày nay vẫn được Hội Thánh đọc trong giờ kinh tối mỗi ngày. Bài ca này gồm hai ý chính: Một là Simêon đã được thỏa mãn khi bồng ẵm Đấng Cứu Thế được hứa sẽ đến, nên ông sẵn sàng nhắm mắt trong bình an thư thái. Hai là sứ mệnh của Đấng Cứu Thế dành cho mọi dân tộc chứ không chỉ dành cho dân Do thái. Người sẽ trở thành ánh sáng chiếu soi cho muôn dân, phá tan mọi u mê tăm tối để giúp mọi người nhìn biết chân lý.
– C 33-35: +Cha và mẹ Hài Nhi ngạc nhiên vì những lời ông Simêon vừa nói về Người:Hai ông bà Giuse Maria kinh ngạc khi nghe ông già Simêon cho biết sứ mệnh cao cả của Hài Nhi Giêsu là cứu độ muôn dân, là ánh sáng muôn dân. Đây là điều Maria chưa nghe sứ thần Gáprien nói đến khi truyền tin. +Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Ítraen phải vấp ngã hay được chỗi dậy. Cháu còn là dấu hiệu bị người đời chống báng: Simêon tiết lộ cho Maria về cách thế người đời đối xử với Chúa Kitô . Người sẽ làm cớ cho nhiều người bị vấp ngã hay được chỗi dậy và là mục tiêu cho người đời chống đối. Khi xuất hiện, Chúa Giêsu sẽ chiathế giới thành hai phe đối chọi nhau: một phe tin yêu Người. Còn phe kia chống đối thù ghét Người. Chính sự yêu hay ghét đó sẽ bộc lộ tâm tư bề trong của con người là họ đứng về phía sự công chính chân thật hay ngả theo sự bất lương dối trá. +Còn chính bà, thì một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà, ngõ hầu những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người phải lộ ra: Riêng bà Maria khi chứng kiến tất cả những sự thù ghét chống đối đó, sẽ bị đau khổ trong tâm hồn giống như bị một lưỡi gươm sắc bén đâm thâu vậy.
– C 36-40: +Lại cũng có một ngôn sứ tên là Anna…: Bà Anna được mệnh danh là ngôn sứ hay tiên tri, vì bà đã làm công việc của một ngôn sứ là tuyên sấm lời Thiên Chúa để kêu gọi người ta sám hối và động viên họ làm việc thiện theo đường lối của Thiên Chúa. +Bà không rời bỏ Đền thờ, những ăn chay cầu nguyện, sớm hôm thờ phượng Thiên Chúa: Bà Anna là một phụ nữ có lòng đạo đức khi chuyên cần phục vụ Đền thờ và năng ăn chay cầu nguyện. +Cũng vào lúc ấy, bà tiến lại gần bên, cảm tạ Thiên Chúa, và nói về Hài Nhi cho hết những ai đang mong chờ ngày Thiên Chúa cứu chuộc Giêrusalem: Bà được Thánh Thần soi sáng nhận biết Đấng Cứu Độ của dân Ítraen. Bà cảm tạ hồng ân của Thiên Chúa và đi loan báo tin mừng về Hài Nhi Cứu Thế cho hết những ai đang trông chờ ơn cứu độ của dân Ítraen được biết. +trở về nơi cư ngụ là thành Nadarét miền Galilê: Từ đây Nadarét trở thành quê hương của Đức Giêsu và luôn gắn liền với tên gọi của Người. Sau này người đời sẽ gọi Người bằng danh hiệu Giêsu Nadarét.
CÂU HỎI: 1-Bài Tin Mừng hôm nay nhằm dạy bài học gì về bản tính của Chúa Giêsu? 2-Luật Môsê quy định thế nào về sự nhơ uế của người phụ nữ sau khi sinh? 3- Luật Môsê dựa vào đâu để quy định khỏan luật về mọi con trai đầu lòng thuộc về Thiên Chúa nên phải dâng cho Thiên Chúa trong Đền thờ? 4-Qua lễ vật dâng cho Thiên Chúa để chuộc lại Hài Nhi Giêsu, chúng ta nhận biết hai ông bà Giuse Maria thuộc lọai người giàu có hay nghèo khó trong xã hội Do thái đương thời? 5-Ong già Simêon nói tiên tri về sứ mệnh của Hài Nhi Giêsu và về tương lai của Đức Maria Mẹ Người? 6-Do đâu tác giả Tin mừng gán cho bà Anna danh hiệu ngôn sứ hay tiên tri? 7-Tại sao Đức Giêsu được gọi là Giêsu Nadarét?
- SỐNG LỜI CHÚA:
- LỜI CHÚA: Ông Giuse liền chỗi dậy, và đang đêm, đưa Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập (Mt 2,14):
- CÂU CHUYỆN: Làm trước dạy sau:
Một hôm có một phụ nữ dắt theo một bé gái đến gặp Ma-Hát-Ma Găng-Đi (Mahatma Gandi) để xin ông một lời khuyên, để con bà bỏ thói hay ăn quà vặt. Găng-đi liền nói: Bà hãy đem nó về nhà và ba tuần sau hãy mang nó trở lại đây cho tôi”. Sau đúng ba tuần, bà ta lại dắt con đến như đã hẹn. Bấy giờ Găng-đi đã khuyên bảo đứa bé đúng như bà mẹ đã yêu cầu, rồi cho hai mẹ con về. Nhưng trước khi ra về, bà mẹ nêu thắc mắc: “Thưa ngài, tôi tưởng là ngài phải làm gì nhiều hơn chứ. Nếu chỉ là việc cho con gái tôi một lời khuyên thì sao ngài lại bắt tôi phải chờ đến ba tuần làm chi?” Bấy giờ Găng-đi mới ôn tồn trả lời: “Thưa bà, lần trước nghe lời bà yêu cầu, tự nhiên tôi cảm thấy xấu hổ, vì chính tôi cũng đang mắc tật xấu hay ăn quà vặt như con gái bà. Vì thế tôi không thể khuyên cháu đừng làm điều mà chính tôi đang mắc phải. Do đó, tôi đã phải hẹn với bà ba tuần sau trở lại, để trong ba tuần lễ đó, tôi cố bỏ tật xấu ấy, rồi mới dám cho cháu bé một lời khuyên như bà đã thấy”.
- SUY NIỆM:
1) Thánh Giuse: Gương mẫu của người trưởng gia đình:
- a) Tinh thần trách nhiệm lo cho gia đình và luôn cậy trông Thiên Chúa: Bấy giờ Hài Nhi Giê-su bị vua Hê-rô-đê tìm kiếm giết hại. Được sứ thần mộng báo, Giuse đã lập tức trỗi dậy ngay lúc đêm tối, đem vợ con chạy trốn sang Ai-cập. Sau khi Hê-rô-đê băng hà, Giuse lại một lần nữa vâng lệnh sứ thần mộng báo, đem Thánh Gia trở về làng Na-da-rét, để tránh bị ông vua mới là Ác-khê-lao tàn ác không kém vua cha giết hại. Qua sự kiện này, ta thấy ngày hôm nay dù có Chúa ở cùng, nhưng chắc chắn chúng ta cũng không tránh khỏi những cơn phong ba bão tố vùi dập. Có điều là thánh Giuse đã không bao giờ ngã lòng trông cậy để nêu gương cậy trông cho chúng ta.
- b) Vợ chồng cùng nhau cộng tác vượt qua nghịch cảnh: Thánh Giuse và Đức Ma-ri-a trong quan hệ với nhau cũng không tránh khỏi có những lúc sóng gió, tưởng như con thuyền gia đình sắp tan vỡ. Chẳng hạn: Giuse đã từng suy nghĩ ngày đêm và quyết định bỏ Ma-ri-a; Cũng có lúc hai ông bà rơi vào hoàn cảnh khốn cùng, như khi hai người về quê khai nhân danh, vừa tới thành Bê-lem thì Ma-ri-a cũng tới lúc sinh con, mà Giuse không sao tìm được một chỗ trọ cho hai người; Có những lúc Giuse Ma-ri-a phải lo lắng, chạy đôn chạy đáo đi tìm Hài nhi bị lạc mà phải mất tới ba ngày mới tìm thấy con trong Đền Thờ. Nhất là có lúc Đức Ma-ri-a phải chịu dao sắc thâu qua trái tim, khi đứng dưới chân bên cây thập giá, chứng kiến người con yêu bị hấp hối và sau khi chết còn bị lưỡi đòng đâm thâu cạnh sườn… Như vậy, Thánh Gia cũng chẳng được ưu đãi hơn so với các gia đình khác, cũng phải trải qua nhiều nghịch cảnh… để nêu gương cho các gia đình tín hữu chúng ta hôm nay. Trong bất cứ hoàn cảnh nào dù khó khăn đến mấy, chúng ta cũng không được ngã lòng thất vọng, nhưng luôn phải vững tin vào tình thương và quyền năng của Chúa quan phòng. Người sẽ mau biến từ sự dữ ra sự lành.
2) Những nguyên nhân gây ra đổ vỡ hạnh phúc gia đình:
Các gia đình hôm nay cũng có nhiều nguy cơ đổ vỡ hạnh phúc:
- a) Có thể do ham bài bạc như đánh đề cá độ bóng đá gây nợ nần, dẫn đến nhà tan cửa nát, vợ chồng ly tán, con cái nheo nhóc bỏ học để đi bụi đời.
- b) Có thể do thái độ ích kỷ và vô trách nhiệm không quan tâm lo cho gia đình dẫn đến sự bất bình khinh thường nhau và tranh cãi giận hờn nhau.
- c) Có thể do thói hư như rượu chè, cờ bạc, trai gái hút chích… Hoặc do cách ứng xử thiếu lịch sự tế nhị với nhau và với cha mẹ họ hàng đôi bên, do lối ứng xử độc đoán không tôn trọng nhau, không bàn hỏi khi quyết định những vấn đề quan trọng, không thống nhất về việc nuôi nấng dạy dỗ con cái.
- d) Có thể do thiếu tình mến Chúa yêu người. Trong một cuộc phỏng vấn, nữ tu Tê-rê-sa Can-quýt-ta đã nói về vấn đề này như sau: “Tôi nghĩ rằng không phải ai cũng ý thức về tầm quan trọng của gia đình. Nếu chúng ta yêu thương nhau thì chắc chắn thế giới này sẽ đổi khác”. Thậy vậy, thế giới băng hoại vì có quá nhiều gia đình thiếu vắng tình thương. Giới trẻ hiện nay rơi vào thói xấu nghiện ma túy, phần lớn là do cha mẹ đã thiếu quan tâm dạy dỗ chúng. Ước gì các gia đình tín hữu chúng ta trở thành những mái ấm đầy tình yêu của Thiên Chúa, vì “Thiên Chúa là Tình Yêu”.
2) Làm thế nào để gia đình luôn sống hòa hợp hạnh phúc?
- a) Học tập nhân bản và giáo lý: Phải làm thế nào để con em chúng ta được giáo dục về các đức tính tự nhiên đi đôi với việc giáo dục đức tin… các bạn trẻ sắp bước vào đời sống hôn nhân gia đình cần được học tập về bổn phận trách nhiệm của mỗi thành viên gia đình, rút kinh nghiệm từ các đôi vợ chồng hạnh phúc hay bất hạnh để phòng tránh và chuẩn bị cho cuộc sống chung sau này.
- b) Mỗi người phải có tinh thần trách nhiệm, sống đúng vai trò của mình trong gia đình là chồng, vợ hay con cái: Một tờ báo ở Luân-đôn nước Anh đã mở một cuộc điều tra các ông chồng, yêu cầu họ thành thật trả lời câu hỏi: “Trong gia đình bạn, ai là người thực sự có quyền làm chủ gia đình?” Kết quả cho thấy có 80% câu trả lời: “Vợ tôi làm chủ”, 19% trả lời “Mẹ vợ tôi làm chủ”. Chỉ có 1% trả lời: “Chính tôi làm chủ, vì vợ tôi đã qua đời!” Như vậy, không lạ gì khi thấy sau Hoa Kỳ, Anh quốc có số gia đình ly hôn chiếm tỷ lệ cao nhất: Mỗi năm cứ hai đám cưới thì có một đám ly hôn.
- c) Vợ chồng cần nuôi dưỡng tình yêu: Tình yêu có đặc điểm là hy sinh cho nhau. Cây tình yêu của hai vợ chồng rất cần được quan tâm khử trừ những con sâu ích kỷ khi chỉ nghĩ đến mình, con sâu độc đoán hẹp hòi, gàn dở khi cố chấp không chịu nhận lỗi và sửa sai, con sâu lười biếng bổn phận của mình và vô trách nhiệm không chịu lo kiếm tiền lo cho gia đình, con sâu tình cảm ngang trái vụng trộm, hoặc hay ghen bóng ghen gió… Tình yêu vợ chồng cũng cần được tưới bón bằng lời Chúa, lời cầu nguyện, bằng những lời khen tặng thành thật, bằng những lời yêu thương và những sự quan tâm và cử chỉ âm yếm dành riêng cho nhau.
- d) Vợ chồng phải tôn trọng nhau, thể hiện qua việc biết trao đổi bàn bạc với nhau trong mọi việc: Phải một lòng một ý về việc cư xử với tha nhân, về việc nuôi dạy con cái, về việc mua sắm đồ dùng trong nhà, và việc làm ăn sinh sống. Vì “Thuận vợ thuận chồng, tát bể Đông cũng cạn”, và: “Phu phụ hòa, gia đạo thịnh”.
- e) Hãy học sống Lời Chúa là “tập quen chịu đựng và tha thứ cho nhau”: Trong một buổi tĩnh tâm dành cho gia trưởng, nhưng cũng có nhiều bà vợ tham dự. Tới phần làm phép thánh giá, cha giảng phòng nói: “Ai có cây thánh giá cần làm phép yêu cầu mang lên gần gian cung thánh để được làm phép”. Bấy giờ một ông lão thay vì mang cây thánh giá thì lại cõng bà vợ bị tê liệt lên. Khi tới phiên, thay vì giơ cây thánh giá lên cho cha rẩy nước thánh thì ông lão lại bồng bà cụ lên trước sự ngạc nhiên của mọi người. Ông nói: “Thưa cha, đây là thánh giá của con. Xin cha làm phép để con được vác thánh giá này đến trọn đời!”.
- g) Gia đình phải có Chúa hiện diện: Thực vậy, nếu gia đình thực sự có đức tin, có lòng đạo đức, thì sẽ thương yêu và nhường nhịn nhau. Cần dọn bàn thờ Chúa ở nơi trang trọng nhất và năng đọc kinh tối gia đình hằng ngày. Trong giờ kinh tối luôn có phần Lời Chúa và cầu nguyện theo Lời Chúa dạy. Gia đình động viên nhau sống tình yêu thương: Chồng yêu vợ, vợ yêu chồng, con cái thảo kính cha mẹ, anh chị em trong nhà biết nghĩ đến nhau và quan tâm làm vui lòng nhau. Cần năng suy niệm và thực hành lời dạy của thánh Phao-lô: “Anh em hãy mặc lấy những tâm tình từ bi, nhân hậu, khiêm cung, ôn hòa, nhẫn nại, chịu đựng nhau và hãy tha thứ cho nhau, nếu người này có chuyện phải oán trách người kia…” (Cl 3,12-13). Trong đời sống hôn nhân gia đình, chắc chắn cũng sẽ có khi vui lúc buồn, khi thành công luc thất bại… Nếu gia đình có Chúa là Tình Yêu ngự trị thì chắc sẽ vượt qua mọi thử thách gặp phải trong cuộc sống hôn nhân gia đình.
- THẢO LUẬN: 1) Nguyên nhân thường gây đổ vỡ hạnh phúc gia đình là gì và phải làm gì để phòng tránh? 2-Bạn có đồng ý với câu người ta thướng nói: “Con hư tại mẹ cháu hư tại bà” không? Tại sao?
- NGUYỆN CẦU
Lạy Chúa Giêsu, mỗi lần tham dự thánh lễ hôn phối, con thấy đôi tân hôn thật hạnh phúc. Với nét mặt rạng rỡ và trong bộ y phục trắng tinh khôi, con thấy cô dâu sánh bước bên chú rể tiến đến trước bàn thờ cử hành hôn lễ như đang bước vào thiên đàng hạnh phúc. Nhưng rồi với năm tháng qua đi, con lại thấy gia đình họ trở thành hỏa ngục trần gian, khi “kẻ thì khóc lóc, người lại nghiến răng”. Xin giúp các đôi vợ chồng trẻ biết duy trì được tình yêu ban đầu. Xin cho họ biết “cho hơn là nhận”, biết ân cần phục vụ lẫn nhau, biết quảng đại tha thứ và chịu đựng nhau. Nhờ đó gia đình chúng con sẽ trở thành một thiên đàng tình yêu, là dấu chỉ sau này chúng con sẽ cùng được hưởng hạnh phúc với nhau trên Thiên đàng.
- X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con. [Mục Lục]
(Chuyển ngữ từ Beliefnet.com – Trầm Thiên Thu)
“Uống nước nhớ nguồn, làm con phải hiếu. Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Người ơi, làm người ở trên đời, nhớ công người sinh dưỡng, đó mới là hiền nhân. Vì đâu anh nên người tài ba…”. Đó là lời trong ca khúc “Ơn Nghĩa Sinh Thành” của cố nhạc sĩ Dương Thiệu Tước, đầy tính nhân bản, khá phổ biến suốt nhiều chục năm qua. Kinh thánh dạy: “Hãy thảo kính cha mẹ” (Hc 3:1-16), kinh Phật dạy: “Tột cùng thiện không gì bằng có hiếu, tột cùng ác không gì bằng bất hiếu”.
Nói đến gia đình là nói đến yêu thương. Gia đình là Tổ ấm. Có tình yêu thương thì gia đình mới “ấm”, đầy ắp tiếng cười, chan hòa niềm cảm thông và tha thứ; ngược lại, thiếu tình yêu thương thì gia đình sẽ “lạnh”, không khí ngột ngạt, khó thở. Thật vậy, ở đâu có tình yêu thương thì ở đó có Thiên Chúa hiện diện. Có Thiên Chúa thì gia đình nghèo khó vẫn “ấm”, vắng Thiên Chúa thì gia đình giàu sang vẫn “lạnh”.
(Hc 3:3-7,14-17 Sách Huấn ca phân tích: “Ai thờ cha thì bù đắp lỗi lầm, ai kính mẹ thì tích trữ kho báu. Ai thờ cha sẽ được vui mừng vì con cái, khi cầu nguyện, họ sẽ được lắng nghe. Ai tôn vinh cha sẽ được trường thọ, ai vâng lệnh Đức Chúa sẽ làm cho mẹ an lòng. Người đó phục vụ các bậc sinh thành như phục vụ chủ nhân” (Hc 3:3-7). Không chỉ vậy, chính lòng hiếu nghĩa đối với cha mẹ sẽ không bị quên lãng, và sẽ đền bù tội lỗi cho chính mình (x. Hc 3:14). Điều đó chứng tỏ Chúa và Giáo hội Công giáo rất tôn trọng chữ Hiếu, không như người ta lầm tưởng. Ai làm ngược lại là mắc trọng tội, vì “ai bỏ rơi cha mình thì khác nào kẻ lộng ngôn, ai chọc giận mẹ mình, sẽ bị Đức Chúa nguyền rủa” (Hc 3:16).
Ca dao Việt Nam cũng so sánh:
Con có cha như nhà có nóc
Con không cha như nòng nọc đứt đuôi
Và xác định:
Dù cho đi hết cuộc đời
Cũng không đi hết những lời mẹ ru
Ơn cha và nghĩa mẹ thật cao vời và bao la biết bao! Mỗi thành viên gia đình đều phải cộng tác với nhau để tạo nên một tổ ấm đích thực, một gia đình thánh cho hợp Thánh Ý Chúa. Đáp ca lễ Thánh Gia dùng Tv 128 nói về các giá trị gia đình: “Hạnh phúc thay bạn nào kính sợ Chúa, ăn ở theo đường lối của Người. Công khó tay bạn làm, bạn được an hưởng, bạn quả là lắm phúc nhiều may. Hiền thê bạn trong cửa trong nhà khác nào cây nho đầy hoa trái; và bầy con tựa những cây ô-liu mơn mởn, xúm xít tại bàn ăn” (Tv 128:1-3). Tác giả Thánh vịnh cho rằng “đó chính là phúc lộc Chúa dành cho kẻ kính sợ Người” (Tv 128:4).
Cl 3:12-21; 3:12-17 Thánh Phaolô nói: “Anh chị em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương. Vì thế, anh chị em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hoà và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh chị em, thì anh chị em cũng vậy, anh chị em phải tha thứ cho nhau” (Cl 3:12-13). Yêu thương và tha thứ luôn có liên kết với nhau: Tha thứ là thể hiện tình yêu thương, mà yêu thương thì phải tha thứ. Không thể làm cái này mà bỏ điều kia, làm một trong hai chỉ là nói dối.
“Trên hết mọi đức tính, anh chị em phải có lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo” (Cl 3:15). Yêu thương là đức mến, mà đức mến lại quan trọng nhất trong ba đức đối thần, đến khi vào Thiên đàng rồi cũng vẫn còn và chỉ còn đức mến, không còn đức tin và đức cậy nữa. Thánh Phaolô nói thêm: “Anh em hãy dạy dỗ khuyên bảo nhau với tất cả sự khôn ngoan” (Cl 3:16), và “anh chị em có làm gì, nói gì, thì hãy làm hãy nói nhân danh Chúa Giêsu và nhờ Người mà cảm tạ Thiên Chúa Cha” (Cl 3:17).
Thánh gia là gương mẫu cho các gia đình, nhưng có thể chúng ta chỉ “nghe và biết” mà không triệt để và tích cực thi hành. Do đó, thánh Phaolô nói chi tiết về vai trò và bổn phận của các thành viên trong gia đình: “Người làm vợ hãy phục tùng chồng, như thế mới xứng đáng là người thuộc về Chúa. Người làm chồng hãy yêu thương chứ đừng cay nghiệt với vợ. Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự, vì đó là điều đẹp lòng Chúa. Những bậc làm cha mẹ đừng làm cho con cái bực tức, kẻo chúng ngã lòng” (Cl 3:18-21). Ai cũng biết trách nhiệm riêng và làm tròn bổn phận mình thì gia đình chắc chắc là một Tổ ấm thực sự vậy.
Gia đình như con thuyền lênh đênh trên “biển đời”, có lúc sóng yên biển lặng, nhưng có lúc lại đầy cuồng phong sóng vỗ. Thánh gia đã từng như vậy, không chỉ trước khi Chúa Con sinh ra mà vừa sinh ra cũng chẳng yên thân với những người ác – điển hình là vua Hêrôđê. Khi các nhà chiêm tinh đã ra về, sứ thần Chúa hiện ra báo mộng cho Đức Thánh Giuse: “Này ông, dậy đem Hài Nhi và Mẹ Người trốn sang Ai-cập, và cứ ở đó cho đến khi tôi báo lại, vì vua Hêrôđê sắp tìm giết Hài Nhi đấy!” (Mt 2:13). Thế nên “gia trưởng” Giuse, người chống mũi chịu sao, liền trỗi dậy để đưa Vợ Con trốn sang Ai-cập ngay giữa đêm tối. Thánh gia phải lưu trú ở đó cho đến khi vua Hêrôđê băng hà, và cũng là để ứng nghiệm lời Chúa phán xưa qua miệng ngôn sứ: “Ta đã gọi con Ta ra khỏi Ai-cập” (Mt 2:18).
Sau khi vua Hêrôđê băng hà, sứ thần Chúa lại hiện ra với Đức Thánh Giuse bên Ai-cập, báo mộng cho ông: “Này ông, dậy đem Hài Nhi và Mẹ Người về đất Ítraen, vì những kẻ tìm giết Hài Nhi đã chết rồi”. (Mt 3:20). Đức Thánh Giuse liền trỗi dậy đưa Hài Nhi và Mẹ Người về đất Ítraen. Thật vất vả cho Đức Thánh Giuse! Cũng chưa yên, vì nghe biết Áckhêlao đã kế vị phụ vương Hêrôđê và cai trị miền Giuđê, nên Đức Thánh Giuse sợ không dám về đó, đành đưa Vợ Con lui về miền Galilê, đến ở thành Nadarét (Mt 2:21-22). Từ đó, Đức Giêsu nghiễm nhiên trở thành người Nadarét.
Người cha và người chồng có cái khổ của người cha và người chồng, người mẹ và người vợ có cái khổ của người mẹ và người vợ. Ai có bổn phận và trọng trách của riêng mình. Chồng hoặc vợ cũng đều lo cho gia đình và con cái, và cũng là lo cho hạnh phúc của riêng mình, đừng vì lý do gì mà “tị nạnh” hoặc “chảnh” mà lênh mặt và khinh miệt nhau. Trọng trách đó cũng chính là Ơn Gọi mà Thiên Chúa kêu mời để thực hiện trọn vẹn để chính mình nên thánh, đồng thời giúp các thành viên trong gia đình cùng nên thánh.
Gia đình là tế bào xã hội, là tế bào cơ bản, để từ đó có những đại gia đình khác là gia đình cộng đồng, gia đình làng xóm, gia đình quốc gia, gia đình nhân loại, gia đình Công giáo,…
Lạy Chúa, xin cho mỗi chúng con biết noi gương Thánh gia từng giây phút để có thể kiến tạo hòa bình và công lý, xây dựng văn minh tình thương, văn hóa sự sống, xứng đáng là thành viên thánh trong đại gia đình Công giáo. Chúng con cầu xin nhân Danh Hài Nhi Giêsu, Thiên Chúa của chúng con. Amen.
***
BÀI 2: Trường học Gia đình
Khi nhập thể và nhập thế, Con Thiên Chúa là Đức Kitô Giêsu đã sinh trong một gia đình. Khi đi lễ đền, Ngài ở lại “lo việc của Chúa Cha” nhưng cha mẹ Ngài không biết, sau ba ngày, Ngài ngoan ngoãn theo cha mẹ về quê và hằng vâng phục cha mẹ (Lc 2:51). Điều đó chứng tỏ gia đình là quan trọng và là trường học đầu tiên của mọi người.
Văn sĩ Charles Dickens (1) nhận định: “Gia đình là một cái tên, một từ ngữ mạnh mẽ, mạnh hơn lời của những pháp sư hay tiếng đáp của các linh hồn. Đó là lời nguyện cầu hùng mạnh nhất”.
Các nhà xã hội học coi gia đình là nơi đặt những “viên gạch đầu tiên” trong việc hình thành nhân cách con người. Điều đó cho thấy gia đình là trường học đầu tiên của mỗi con người. Quả thật, giáo dục gia đình rất quan trọng, đặc biệt là người mẹ, vì người mẹ gần gũi con cái ngay từ khi nó mới sinh ra và suốt những tháng năm đầu đời.
Nhân cách là tính cách của một con người, và rồi con người đó có thể tốt hoặc xấu. Vì thế, giáo dục nhân cách rất quan trọng, phải bắt đầu từ gia đình, nhưng giáo dục gia đình lại là vấn đề rộng lớn. Ở đây chúng ta nói về vai trò của cha mẹ trong việc giáo dục hình thành nhân cách cho trẻ em ở Việt Nam hiện nay.
Như đã nói, gia đình là môi trường giáo dục đầu tiên, tức là trường học đầu tiên của bất kỳ con người nào. Mỗi con người đều được sinh ra từ cha và mẹ. Đứa trẻ luôn gần gũi và lắng nghe những “âm thanh cuộc sống” đầu tiên từ cha mẹ – đặc biệt là từ người mẹ. Người mẹ hiền lành, dịu dàng, ăn nói nhẹ nhàng, đứa trẻ đều nhận biết và chịu ảnh hưởng. Ngày xưa, người mẹ ru con bằng những câu hò, ca dao, điệu lý,… nhẹ nhàng và trong sáng. Rất tiếc là ngày nay không phổ biến, nhưng vẫn còn phần nào những lời “ầu ơ”, “ví dầu”,… khi mẹ ru con ngủ. Lời ru không thể nào gắt gỏng hoặc như “dùi đục chấm mắm cáy”, vì thế mà đứa trẻ vẫn ảnh hưởng sự dịu dàng của lời mẹ ru.
Khi con trẻ chập chững những bước đi đầu đời, người đầu tiên chỉ dạy cho bé cách đi đứng, nói năng, không ai khác là cha mẹ. Vì vậy, cha mẹ là người thầy đầu tiên của con cái. Điều đó xác định việc giáo dục gia đình vô cùng quan trọng trong việc hình thành nhân cách của con cái. Dĩ nhiên, vì lý do nào đó, có những đứa trẻ thiếu sự quan tâm chăm sóc của cha mẹ nhưng nó vẫn có thể hình thành nhân cách tốt, đó là nhờ quá trình tự giáo dục tốt. Nhưng hầu như sự giáo dục gia đình không tốt thì nhân cách đứa trẻ ắt có phần khiếm khuyết, đôi khi hoàn toàn xấu. Do đó, giáo dục gia đình rất quan trọng đối với mỗi con người, vì còn trẻ người non dạ, không ai có thể hiểu biết về mình, về xã hội, về cuộc sống,… nhưng được gia đình định hướng và dạy dỗ, nhờ đó mà tích lũy kinh nghiệm và trưởng thành dần theo thời gian.
Ngoài ra, gia đình còn là hành trang “ắt có và đủ” đối với mỗi con người. Trong thời gian đầu đời, ai cũng được sống với ông bà, cha mẹ, anh chị em. Lớn lên, những người lập gia đình rồi có con, cháu. Trong gia đình, mọi người đùm bọc nhau về vật chất, tinh thần, tâm linh,… Người trẻ có điều kiện để lớn khôn, người già có nơi nương tựa, người u buồn được an ủi, người yếu đau được nâng đỡ,… Như vậy, gia đình là một cộng đồng luôn gắn bó với nhau trên từng bước đường của cuộc sống. Dù là ai, được sống trong tình yêu thương của gia đình là hạnh phúc. Ai không được như vậy thì thật là nỗi bất hạnh. Trong quá trình sống với gia đình, cùng trao và nhận tình yêu thương, mỗi người lại tiếp tục tự hoàn thiện mình và tự hoàn thiện nhân cách.
Gia đình là tế bào của xã hội. Gia đình luôn có mối quan hệ mật thiết với xã hội, đơn giản nhất là quan hệ với làng xóm, khu phố. Như tục ngữ có câu: “Bán anh em xa mua láng giềng gần”. Động từ “bán” và “mua” ở đây không mang nghĩa “thương mại”, nhưng có ý nói rằng láng giềng gần gũi và cần thiết lắm. Họ là những người “tối lửa tắt đèn có nhau”, mình có chuyện gì thì thân nhân ở xa đâu biết được, chỉ có láng giềng biết. Nói theo Công giáo, đó là những người lân cận, những người mà Đức Giêsu đề cao qua dụ ngôn “Người Samari Nhân Hậu” (Lc 10:29-37).
Gia đình cũng là nơi tái tạo con người. Thành viên nào lỗi lầm vẫn được gia đình an ủi, khuyên nhủ, che chở, bảo vệ, nâng đỡ,… Nhờ đó mà người lầm lỗi có thể đứng dậy và làm lại cuộc đời. Mỗi thành viên gia đình là một người tốt thì xã hội sẽ tốt, đất nước có những công dân tốt, Giáo hội cũng có những “chiên ngoan”. Xã hội có nhiều công dân tốt, ắt hẳn đất nước có thể vững mạnh, xã hội có thể văn minh, cộng đồng ít tệ nạn. Có ít cái xấu sẽ có nhiều cái tốt, con người quan tâm đối xử với nhau bằng tình thân ái và lòng nhân hậu. Nói vậy có nghĩa là cả xã hội phải thực sự chú tâm tới sự nghiệp giáo dục, không thể lơ là hoặc “đánh trống bỏ dùi”. Vì chú trọng số lượng hơn chất lượng, chạy theo thành tích, không lo “tiên học lễ, hậu học văn” nên đạo đức mới bị sa sút trầm trọng, đi đâu cũng thấy tội phạm! Học sinh cần phải được giáo dục về giao tiếp và ứng xử ngay trong cộng đồng, hội đoàn, đặc biệt phải bắt đầu từ gia đình.
Xã hội càng ngày càng văn minh và tiến bộ, đó là niềm vui. Nhưng cứ đua đòi hoặc chạy đua theo lối sống xa hoa thì dễ sa đọa, đi đâu cũng thấy treo bảng “văn hóa” nhưng lối sống chẳng thấy gì là văn hóa. Trị bệnh phải trị tận căn, nhổ cỏ phải nhổ tận gốc. Nhiều hiện tượng xã hội mới liên quan vấn đề trẻ em đặt ra những thách thức mới trong việc giáo dục gia đình: Trẻ em lang thang, trẻ em phạm pháp, trẻ em bị lạm dụng tình dục, trẻ em bị bóc lột sức lao động, trẻ em quan hệ tình dục sớm, ấu dâm, mại dâm trẻ em, lạm dụng ma tuý, lạm dụng chất có men,… Điều đó đòi hỏi việc quản lý và kiểm soát chặt chẽ của các nhà hữu trách, nhưng vấn đề chính vẫn là phải giáo dục trước tiên từ gia đình. Một việc không dễ, vì vừa đòi hỏi gia đình phải phát huy hết các sức mạnh, vừa đòi hỏi các thành viên trong gia đình phải chung tay góp sức và phải là những tấm gương sáng lẫn nhau – đặc biệt là đối với trẻ em. Cây phải được uốn từ lúc cây còn nhỏ, con người cũng vậy, phải được uốn nắn từ nhỏ và ngay tại gia đình, sau đó mới tới nhà trường và xã hội.
Đã có nhiều trường hợp con cái hư, rồi lấy cớ là bận rộn, lo làm ăn. Không thể viện cớ như vậy! Các cha mẹ khá giả chiều chuộng con cái quá mức, để chúng tự do, muốn gì được nấy, tiêu xài xả láng, cứ tưởng như vậy là yêu con, sai lầm nghiêm trọng. Tục ngữ Việt Nam rất chí lý: “Thương con cho roi cho vọt, ghét con cho ngọt cho bùi”. Về tâm linh, Thánh Phaolô cũng nói: “Chúa thương ai thì mới sửa dạy kẻ ấy, và có nhận ai làm con thì Người mới cho roi cho vọt” (Dt 12:6).
Gia đình nào thường xuyên cãi cọ, mâu thuẫn, xung đột, bạo lực,… nhất là các gia đình có cha mẹ ly hôn hoặc ly thân, con cái bị ảnh hưởng rất nặng về cả tâm lý lẫn sinh lý. Trẻ em không được chăm sóc, nhất là khi bị tổn thương về tình cảm hoặc tinh thần, nhiều trẻ em đã bỏ nhà đi bụi đời, sống lang thang, bất cần đời, rồi dễ sa vào tội lỗi và tệ nạn xã hội. Nguyên nhân là chúng mất cái gốc quan trọng là gia đình, không được dưỡng dục thể chất và tinh thần để có thể nên người. Trước thực trạng đó, việc giáo dục trẻ em ở gia đình càng trở nên cấp bách hơn.
Quả thật, chuẩn mực đạo đức và trình độ nhận thức của một con người phải được hình thành từ nhỏ, bắt đầu từ môi trường gia đình. Việc giáo dục đạo đức dần dần đưa chúng vào nền nếp gia phong từ những gì nhỏ nhất trong cuộc sống hằng ngày như thật thà, vị tha, không vị kỷ, biết giữ lời hứa, lễ phép, nhân hậu, hiền dịu, hiếu thảo, nhường nhịn,… Nói chung là biết quên mình mà sống vì người khác. Đơn giản nhất là các động thái nhỏ về ứng xử, lời ăn, tiếng nói: Chào hỏi, xin phép, xin lỗi, cảm ơn,… Đó là phép lịch sự tối thiểu trong phép xã giao. Tục ngữ Việt Nam đã cảnh báo: “Lỗ nhỏ làm đắm thuyền”. Đừng khinh suất những điều nhỏ!
Sống tốt không chỉ là tránh điều xấu mà còn phải tích cực làm điều thiện. Sống thật thà không chỉ là không ăn gian, không nói dối, mà còn phải tôn trọng những gì là của người khác: Thấy tiền hoặc vật dụng của người khác mà không nổi máu tham thì mới là thật thà, chứ không thấy thì có gì mà tham, mà lấy? Về tâm linh cũng vậy, có dịp phạm tội mà không phạm thì mới là thánh thiện, chứ không có dịp phạm tội thì chưa biết ai hơn ai.
Gia đình là vườn ươm mầm đời sống và là nơi tôi luyện các nhân đức của con người. Cha mẹ không nên khắt khe, nhưng phải cương nghị, thấy con cái sai thì phải nghiêm túc chấn chỉnh ngay, không được làm ngơ! Cha mẹ nên hiền từ, nhưng đừng nhu nhược. Cha mẹ nhu nhược cũng “tiếp tay” cho con cái hư hỏng. Văn sĩ Robert Anson Heinlein (2) khuyên: “Đừng gây bất lợi cho con cái bạn bằng việc cho chúng cuộc sống dễ dàng”.
Cha mẹ phải là người đầu tiên điều chỉnh con cái, để chúng không chỉ chấp nhận mà còn tích cực cố gắng sửa đổi ngay. Cha mẹ cũng không được hành động cho thỏa cơn giận, nhưng phải kiên nhẫn, tìm hiểu, để biết rõ nguyên nhân, để ngày càng thích ứng và sống chan hòa với con cái.
Hiện nay, không ít cha mẹ lo nuôi con về thể lý mà coi thường việc giáo dục tinh thần, lo đầu tư cho việc dạy chữ mà quên việc dạy người. Có những cha mẹ không chú ý vai trò làm “người thầy đầu tiên” của con cái, phó mặc mọi việc giáo dục con cho nhà trường. Đó là sai lầm lớn cần chấn chỉnh càng sớm càng tốt!
Giáo dục đa dạng, đơn giản là hai phần chính: Giáo dục thể lý và giáo dục tinh thần. Nhưng có một phần quan trọng không được bỏ quên, đó là việc giáo dục tâm linh. Mến Chúa thì phải yêu người. Thánh Gioan giải thích: “Ai nói rằng mình biết Người mà không tuân giữ các điều răn của Người, đó là kẻ nói dối, và sự thật không ở nơi người ấy. Ai nói rằng mình ở trong ánh sáng mà lại ghét anh em mình, thì vẫn còn ở trong bóng tối” (1 Ga 2:4 và 9).
Chính Chúa Giêsu cũng đã xác định: “Ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi” (Mt 12:50; Mc 3:35; Lc 8:21). Chỉ có những người như vậy mới thực sự là thành viên trong Đại Gia Đình Kitô Giáo, Đại Gia Đình của Thiên Chúa.
————–
(1) Charles John Huffam Dickens (1812–1870) có bút danh là Boz. Ông là tiểu thuyết gia người Anh nổi tiếng nhất thời đại Nữ hoàng Victoria. Ông được coi là một trong những văn sĩ vĩ đại viết bằng Anh ngữ, được ca ngợi về khả năng kể chuyện và trí nhớ, được nhiều người ở khắp nơi yêu mến. Các tác phẩm của ông chủ yếu dành cho thiếu nhi và mang tính chất hiện thực.
(2) Robert Anson Heinlein (1907–1988) là nhà văn khoa học viễn tưởng Mỹ. Ông được coi là văn sĩ gạo cội trong lĩnh vực khoa học viễn tưởng, là một trong những tác giả nổi tiếng nhất có ảnh hưởng nhất và cũng gây nhiều tranh cãi nhất về thể loại này. Ông đã lập ra một chuẩn mực cao đối với sự hợp lý về khoa học kỹ thuật trong văn học và góp phần thúc đẩy chất lượng chung của thể loại khoa học viễn tưởng. Ông là văn sĩ khoa học viễn tưởng đầu tiên thu hút được sự chú ý của công chúng, đặc biệt trên những tạp chí chính thống như tờ “The Saturday Evening Post” vào cuối thập niên 1940. Ông cũng là một trong những tiểu thuyết gia thành công đầu tiên về thể loại khoa học viễn tưởng thời hiện đại.
***
BÀI 3: Điều gì xác định một gia đình?
Khi nghĩ về gia đình, bạn nghĩ tới ai? Điều tốt đẹp về gia đình là đa dạng, nhiều kích cỡ, nhiều kiểu. Gia đình “pha trộn” nhiều người với tính cách khác nhau nhưng luôn quan tâm lẫn nhau. Điều đó không xác định bằng máu huyết mà là một nhóm người tạo nên sự khác biệt trong cuộc sống và tiếp tục hướng dẫn nhau.
Bộ phim Annie, được khởi chiếu ngày 19-12-2014, co biết tại sao máu huyết không xác định một gia đình. Annie nói: “Chúng ta có gia đình ở một nơi nào đó”. Sống theo cách nói đó sẽ giúp chúng ta đánh giá gia đình mình và những điều tốt lành mà chúng ta có.
KÍCH CỠ
Một số gia đình nhỏ, một số gia đình vừa, và một số gia đình lớn, nhưng dù gia đình có kích cỡ nào thì vẫn luôn đầy ắp tình yêu thương. Một gia đình không thể định lượng vì tình yêu được cá nhân hóa bởi mỗi thành viên. Người ta tạo một gia đình không bởi số người.
MÀU DA
Gia đình pha trộn, chứ màu da không là yếu tố. Nếu có một người quan tâm bạn và người đó là một phần trong cuộc đời bạn, màu da của họ chỉ biểu hiện cá nhân họ dù họ có thể hoặc không thể là một phần trong gia đình bạn. Gia đình tràn đầy tình yêu và tình yêu không phân biệt màu da.
HUYẾT THỐNG
Huyết thống không xác định một gia đình. Trong cuộc sống, bạn thấy rằng những người thân có liên quan huyết thống, nhưng điều đó không nhất thiết và không hoàn hảo, vấn đề quan trọng là cả gia đình sum vầy bên nhau vào cuối ngày. Khi trưởng thành, chúng ta tìm một người bạn đời cùng chia sẻ cuộc sống, và rồi chúng ta còn có những nối kết với con cái, bạn bè, thú cưng,… Chúng ta tạo mối quan hệ “máu” và chu kỳ cứ tiếp diễn khi chúng ta già, con cháu lại tiếp tục hành trình của chúng.
HỆ LỤY
Trong hành trình cuộc sống, bạn sẽ gặp những người mà bạn có quan hệ, và các mối quan hệ đó giúp bạn xác định cuộc sống. Chúng ta gọi họ là bạn bè, nhưng sự thật là những người đó gần gũi chúng ta hơn anh chị em trong gia đình. Những người bạn này là những người mà chúng ta có thể chia sẻ nỗi buồn và có thể khóc trước mặt họ, hoặc có thể chia sẻ niềm vui với họ. Các hệ lụy khó tả này chính là gia đình đấy!
Chúa Giêsu xác định: “Phần anh em, đừng để ai gọi mình là ráp-bi [thầy], vì anh em chỉ có một Thầy; còn tất cả anh em đều là anh em với nhau” (Mt 23:8). Nếu là hung đệ thì chúng ta phải làm gì? Thánh Phaolô cho biết: “Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Kitô Giêsu” (Pl 2:5).
***
BÀI 4: Gợi ý kết hiệp với Chúa
Chúng ta rất cần có Thiên Chúa trong cuộc đời mình, nhưng quan trọng hơn là chúng ta phải kết hiệp mật thiết với Ngài. Có nhiều điều chúng ta có thể làm để sự hiện diện của Chúa rõ ràng hơn và phong phú hơn. Đây là 5 gợi ý giúp bạn kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa.
DÀNH THỜI GIAN CHO CHÚA
Dành thời gian cho Chúa không chỉ là tới nhà thờ tham dự các giờ phụng vụ. Mỗi ngày chúng ta nên dành thời gian để sống riêng với Chúa. Hãy kết hiệp với Ngài và cho Ngài biết điều gì đang diễn tiến trong cuộc đời bạn.
CHÂN THẬT
Thiên Chúa biết rõ tất cả, vì thế chúng ta không thể viện cớ gì để biện hộ. Chân thật là cách tốt nhất để giao tiếp với mọi người, nhất là đối với Thiên Chúa.
CẦU NGUYỆN
Hãy cầu nguyện khi bạn đứng chờ xe buýt, chờ đèn đỏ, khi đi dạo, khi tập thể dục, khi nấu cơm, khi rửa chén,… Với người muốn kết hiệp với Chúa, người ta có thể cầu nguyện mọi nơi và mọi lúc, thậm chí cả khi chúng ta đang lái xe. Cầu nguyện là cách tốt để tâm sự với Ngài về mọi nhu cầu, mọi nỗi niềm của chúng ta. Cầu nguyện sẽ giúp bạn mạnh mẽ hơn và đến gần với đức tin.
HIỂU BIẾT GIÁO HUẤN CỦA CHÚA
Hãy làm quen với việc đọc Kinh Thánh và hiểu biết các giáo huấn của Thiên Chúa. Hãy tìm hiểu việc hy sinh và cách sống tốt. Khi biết Chúa và các giáo huấn của Ngài, bạn sẽ cảm thấy được kết hiệp với Ngài sâu sắc hơn.
ƯU TIÊN THIÊN CHÚA
Dù gì thì Thiên Chúa cũng phải là ưu tiên số một trong cuộc đời chúng ta. Chỉ có Thiên Chúa mới là Đấng ban phúc lành cho chúng ta để chúng ta có thể sống kết hiệp với Ngài. Ngài là tất cả!
Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người. Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1:9 và 14). Đấng Emmanuel là Thiên Chúa ở với chúng ta. [Mục Lục]
Minh họa Lời Chúa Lễ Thánh Gia Thất
- Gia đình cầu nguyện
Một trong những việc gia đình làm để thờ phượng Chúa là đọc kinh cầu nguyện.
Tạp chí Reader’s Digest của Hoa Kỳ có đăng một bài báo tựa đề: “Thăm dò gia đình”, gồm 12 câu hỏi. Một trong những câu hỏi đó như sau: “Dịp một lễ của gia đình, bạn có mời khách đến dự, bạn có thấy thoải mái dễ dàng yêu cầu mọi người trong gia đình bạn đọc kinh không?”
Câu hỏi này khiến chúng ta phải lưu ý đến một việc chính yếu của gia đình biết noi gương Thánh Gia Thất, siêng năng cầu nguyện để thờ phương Chúa.
Cầu nguyện trong gia đình có thể thực hiện dưới ba hình thức:
- Cầu nguyện riêng tư, cá nhân. Mỗi người cầu nguyện riêng với Chúa. Như người Cha cầu nguyện khi đi làm… Chúa Giêsu thường cầu nguyện theo hình thức này.
- Mọi người trong gia đình cũng cầu nguyện, như cầu nguyện khi mọi người tề tựu chung quanh bàn ăn, nhất là trước bàn thờ tối sáng… Chúa Giêsu cũng thường cầu nguyện theo cách này: như trong Bữa Tiệc Ly (Lc.9,16), với hai môn đệ Emmau (Lc.24,30)
- Cầu nguyện với cộng đoàn, cùng với các gia đình khác trong một xóm đạo hay trong nhà thờ… Chúa Giêsu cũng nêu gương cầu nguyện theo hình thức này. (Lc.4,6)
———-
Lễ Thánh gia hôm nay là dịp hy hữu để chúng ta tự vấn về việc cầu nguyện trong gia đình của chúng ta. Nói cụ thể hơn là chúng ta (gồm cả ông bà, cha mẹ, con cháu trong gia đình) có đọc kinh cầu nguyện không? Đọc kinh cầu nguyện sốt sắng không? Đọc kinh cầu nguyện thường xuyên không?
- Không có thời giờ
Một linh mục đang kiểm điểm tình hình sống đạo trong giáo xứ. Ngài hỏi một gia đình:
– Chúng con có thường xuyên cầu nguyện chung trong gia đình không?
Người gia trưởng trả lời:
– Thưa Cha, chúng con bận việc quá, không có giờ đọc kinh cầu nguyện.
– Giả như con biết đứa con nào của con sẽ bị bệnh nếu chúng con không cầu nguyện, thì gia đình chúng con có cầu nguyện không?
– Ồ chắc chúng con sẽ cầu nguyện.
– Giả như con biết ngày nào gia đình chúng con lười biếng cầu nguyện thì một đứa con phải bị tai nạn. Các con có cùng cầu nguyện không?
– Tất nhiên chúng con sẽ cầu nguyện.
– Giả như ngày nào chúng con không đọc kinh cầu nguyện thì phạt năm chục ngàn. Chúng con có bỏ việc cầu nguyện không?
– Chắc chúng con không dám bỏ cầu nguyện. Nhưng thưa Cha, Cha hỏi như thế có ý gì?
– Vì con nói không có thời giờ cầu nguyện, tại con chưa xác tín rằng: nhờ lời cầu nguyện Chúa sẽ ban mọi ơn lành cho vợ cùng con cái con. Chúa sẽ cứu giúp gia đình con khỏi mọi gian nan thử thách. Nhất là con sẽ chu toàn bổ phận thờ phượng Chúa theo gương Thánh gia Thất. (Theo “Minh họa Lời Chúa”)
- Lời cầu nguyện rất hiệu nghiệm
Một đứa trẻ nhờ cha mẹ dạy và làm gương, nên luôn giữ thói quen đọc kinh trước khi đi ngủ. Ngày nọ em bị bệnh nặng phải vào nằm bệnh viện. Bác sĩ cho biết em phải qua một cuộc phẫu thuật mới hỏi bệnh. Trước khi tiêm thuốc mê để mổ, bác sĩ cho em biết: em sẽ ngủ một giấc thật lâu. Nghe noi đến ngủ, em xin bác sĩ chờ em một chút, để em cầu nguyện như thường lệ. Và em kết thúc lời nguyện bằng cầu:
– Lạy Chúa, xin cho con mau hết bệnh.
Sau đó em tự nằm xuống cho bác sĩ thi hành việc của ông… Khi thức dậy, câu hỏi đầu tiên của em là:
– Thưa bác sĩ, cháu có lành bệnh không?
Bác sĩ nhìn em và cảm động nói:
– Cháu hãy để Chúa lo liệu… Điều bác tin chắc là lời cầu nguyện của cháu rất hiệu nghiệm. Chúa đã cứu được một người là chính bác. Từ lâu bác không đến nhà thờ, không đọc kinh cầu nguyện, cũng chẳng bao giờ nhớ đến Chúa. Nhưng hôm nay khi cháu cầu nguyện sốt sắng, Chúa đã đánh động lòng bác. Sáng sớm hôm nay, bác đã đến nhà thờ xưng tội rước lễ và đọc kinh cầu nguyện.
——–
Lời cầu nguyện chẳng những để thờ phượng Chúa theo gương Thánh Gia Thất, mà còn cứu được chính mình và kẻ khác phần hồn phần xác. (Theo “Minh họa Lời Chúa”).
- Quà tặng
Đức Tổng Giám Mục Milan ở phía Bắc nước Ý có kể câu chuyện:
Vào dịp lễ Giáng Sinh có đông trẻ em, Chúa Giêsu đến với các em. Thấy Chúa, các em mừng quá, vỗ tay treo hò vang dội. Bỗng có một em xin Chúa tặng quà mừng Sinh Nhật của Chúa. Và tất cả các em khác đồng thanh hưởng ứng. Chúa Giê su có vẻ suy nghĩ lo lắng một lúc, vì dường như Người nghèo quá không có quà tặng. Rồi Người mỉm cười giang rộng hai tay ra ôm các trẻ. Nhưng các em vẫn chờ đợi quà. Một em nói với đứa bạn bên cạnh:
– Ngài không tặng quà cho mình đâu. Thật đúng như lời người ta nói: Tôn giáo không có ích gì, vì nó đâu có mang lại cho chúng ta món quà nào.
Nhưng em đó trả lời:
– Khi Chúa Giê su giang rộng hai tay ôm lấy chúng ta là Ngài ban tặng chính Ngài cho chúng ta. Chính Ngài là quà tặng cho chúng ta đó.
———-
Chúng ta noi gương Thánh Gia Thất cầu nguyện. Thay vì ban ơn này ơn khác cho chúng ta, Chúa Cha đã ban Con Một của Người cho chúng ta. Và chính Chúa Giêsu là quà tặng cho chúng ta, yêu thương gia đình chúng ta, chịu chết cứu gia đình chúng ta, sống lại và lên trời để dọn chỗ sẵn cho gia đình chúng ta… (Theo “Phút cầu nguyện cuối ngày”, tập 1)
- Dung mạo Chúa Cứu Thế
Ngày nọ hoàng đế của một nước hùng cường thình vượng triệu tập các nghệ nhân các nước đến dự cuộc thi, mô tả dung mạo hoàng đế.
Các nghệ nhân Ấn Độ, Acmêni, Ai cập mang đầy đủ vật liệu và dụng cụ đến. Còn nghệ nhân Hy Lạp chỉ mang vỏn vẹn thuốc đánh bóng.
Mỗi phái đoàn thi thố tài năng trong một phòng riêng. Đến ngày giờ ấn định, hoàng đế và đoàn tùy tùng đến từng phòng chấm điểm, ông hết sức khen ngợi các nghệ nhân Ấn độ đã vễ chân dung ông đặc sắc, các nghệ nhân Acmêni và Ai cập điêu khắc dung mạo ông cũng không khém sắc sảo. Nhưng khi đến phòng các nghệ nhân Hy Lạp, nhà vua chẳng thấy gì, chỉ có bức tường của căn phòng được đánh bóng sáng chói, đến độ ông nhìn vào thì thấy chân dung mình rõ né t. Thế là giải nhất thuộc về các nghệ nhân Hy Lạp.
—————
Muốn mang lại dung mạo Chúa Kitô, cần đánh bóng lòng mình cho sạch mọi vết nhơ. Một khi tâm hồn đã được đánh bóng sáng ngời, chúng ta sẽ thấy dung mạo Chúa Kitô rạng ngời trong đó.
Lúc Thánh Giuse và Đức Mẹ dâng Chúa Hài Nhi trong đền thờ, có biết bao tư tế và luật sĩ ở đó thông thạo Kinh Thánh, am tường các lời ngôn sứ, nhưng họ không nhận ra Chúa, duy chỉ có ông Simêon và bà Anna nhận ra dụng mạo Chúa Cứu Thế.
Sở dĩ hai người này nhận ra Chúa Cứu Thế là vì họ đã mài bóng đời mình bằng đạo đức và bằng lời cầu nguyện, việc hi sinh hãm mình hằng ngày trong Đền Thờ.
Lễ Thánh Gia mời gọi chúng ta nhìn vào các gia đình. Truyền thống tốt đẹp gia đình ngày càng sa sút: ly thân, ly dị, phá thai, mại dâm, trẻ bụi đời, ma túy ngày càng gia tăng!… Gia đình là nền tảng của xã hội và Giáo Hội. Nếu gia đình không lành mạnh, làm sao xã hội và Giáo Hội tốt đẹp?!…
(Theo “Như Thầy đã yêu”). [Mục Lục]