Chúa nhật IV thường niên, năm A: Các bài suy niệm & chú giải Lời Chúa


CHÚA NHẬT IV THƯỜNG NIÊN, NĂM A
Các bài suy niệm & chúc giải Lời Chúa
Lời Chúa: Xp 2,3 – 3,12-13; 1Cr 1,26-31; Mt 5,1-12a

MỤC LỤC

  1. Hãy vui mừng
  2. “Phúc thay người nghèo!”
  3. Hạnh phúc – ĐGM. Cosma Hoàng Văn Đạt
  4. Chúa muốn con người hạnh phúc
  5. Những người được chúc phúc
  6. Chỉ mong Ngài lấy đi
  7. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành
  8. Hạnh phúc
  9. Khó nghèo
  10. Nẻo về hạnh phúc – Lm. Ignatiô Trần Ngà
  11. Hạnh phúc khi trao ban – Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền
  12. Mối phúc thật – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
  13. Sống cuộc đời thành tựu
  14. Mối phúc thứ nhất
  15. Hạnh Phúc là Tình Yêu và là Sự Sống
  16. Sự khiêm tốn – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
  17. Đi tìm hạnh phúc
  18. Hạnh Phúc ơi, Mi là gì?
  19. Nỗi khao khát
  20. Chín lần hạnh phúc
  21. Phúc cho người sống những mối phúc
  22. Bàn tay Chúa – Lm Vũ Đình Tường
  23. Chúa Nhật 4 Thường Niên
  24. Đường hẹp – Radio Veritas Asia
  25. E.T. gọi về nhà
  26. Hạnh phúc đích thực
  27. Chúa tôn người khiêm hạ
  28. Phúc thay
  29. Tám mối Phúc Thật
  30. Hạnh phúc thật
  31. Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó
  32. Hạnh phúc
  33. Chúa là phúc thật – Lm. Phạm Quốc Hưng
  34. Đức Giêsu công bố cẩm nang hạnh phúc
  35. Phúc thật, phúc giả – Lm. Bùi Quang Tuấn
  36. Xây dựng hoà bình
  37. Tám Mối Phúc
  38. Phúc Tám Mối
  39. Chú giải của Noel Quession
  40. Chú giải của Fiches Dominicales
  41. Phân tích chi tiết mỗi chân phúc
  42. Suy niệm của Lm. Đan Vinh

1.Hãy vui mừng

(Trích trong ‘Manna’)

Suy Nim

Đời sống mỗi người đều có những chỗ khuyết, chỗ hụt, những mất mát, yếu kém không thể bù đắp, nên ở đời có vẻ chẳng ai được hạnh phúc trọn vẹn. Ngay giữa lúc hạnh phúc nhất, cũng có điều làm bận lòng.

Trong bài giảng đầu tiên trên một ngọn núi, Đức Giêsu đã chỉ cho ta bí quyết để có hạnh phúc.

Hạnh phúc thực sự là quà tặng của Thiên Chúa, nhưng con người cần sống tích cực để đón nhận.

Được Nước Trời, được Đất Hứa, được thấy Thiên Chúa, được Ngài ủi an, thương xót, và làm cho no thỏa: những điều đó có nghĩa là sống thân tình với Ngài, được vui hưởng hạnh phúc viên mãn của chính Thiên Chúa.

Chỉ nơi Ngài mới có hạnh phúc trọn vẹn, vững bền.

Con người chỉ có hạnh phúc khi gắn bó với Nguồn cội, với Đấng đã, đang và sẽ ban cho mình tất cả.

Nói cho cùng, người hạnh phúc là người biết mở ra, mở ra với Thiên Chúa và mở ra với tha nhân.

Người có tâm hồn nghèo khó là người thật sự nghèo, chẳng có nhiều của cải hay chỗ đứng trong xã hội. Khi cảm nghiệm nỗi bất lực của mình, họ khiêm tốn mở ra và phó thác cho duy Thiên Chúa. Chính lúc đó họ thấy mình bình an, vững vàng.

Người khao khát trở nên công chính là người mong nên thánh. Nên thánh là sống theo tinh thần của cả Bài Giảng trên Núi. Nỗi khao khát không nguôi làm cho con người lớn lên. Nỗi khao khát đào sâu, để con người chứa được nhiều.

Người sầu khổ về mọi mặt sẽ được hạnh phúc, khi trong cơn đau, họ biết quay về với Thiên Chúa. Phúc cho ai thấy đau khổ của mình có ý nghĩa: đau khổ để đền tội, để phục vụ, để triển nở thiêng liêng. Ngay cả đau khổ vô lý cũng làm ta gần Đấng trên thập giá.

Người bị bách hại, lăng nhục, vu khống là người có phúc. Ngay giữa ngặt nghèo họ vẫn cảm được niềm vui (Cv 5,41), vì họ dám sống và dám chết cho Thầy Giêsu.

Người hiền lành là người có lòng nhân đối với người khác. Họ học gương hiền lành của Thầy Giêsu (Mt 11,29), không lấy oán báo oán khi mình bị xúc phạm (Mt 21,5).

Người có lòng thương xót là người biết mở ra để cảm thông, đau nỗi đau người khác và chia sẻ những gì mình có.

Người có tâm hồn trong sạch là người ngay thẳng, thật thà, không giả hình, nhưng làm với ý hướng trong sáng. Chính sự trong sáng của thân xác và tâm hồn sẽ làm người ấy dễ gặp được khuôn mặt Thiên Chúa.

Người xây dựng hoà bình là người gieo an hoà khắp nơi, trong gia đình, ngoài xã hội và giữa các dân tộc. Họ giải toả những bất đồng, tháo gỡ những tranh chấp. Họ coi mọi người là anh em, con cùng một Cha.

Thời nào con người cũng lao đao đi tìm hạnh phúc.

Phúc cho ai không khép lại để tìm hạnh phúc cho mình, nhưng biết mở ra để sống cho Chúa và tha nhân.

Gi Ý Chia S

Có lần bạn đã sống một trong những mối phúc, và bạn đã có một kinh nghiệm không quên. Xin chia sẻ kinh nghiệm đó.

Bạn nghĩ gì về bạn? Nói chung bạn có phải là một người hạnh phúc không? Điều gì làm bạn đau khổ?

Cu Nguyn

Ly Chúa, xin cho con luôn vui tươi. Dù có phi lo âu và thng kh, xin cho con đừng bao gi khép li vi chính mình; nhưng biết nghĩ đến nhng người quanh con, nhng người – cũng như con – đang cn mt người bn.

Nếu như con nên yếu đui, thì xin cho con biết yêu thương và sáng sut hơn, thông cm và nhân t hơn.

Nếu bàn tay con run ry, thì xin giúp con luôn biết m ra và cho đi.

Khi lâm t, xin cho con biết đón nhn kh đau và bnh tt như mt li kinh.

Ước chi con s chết trong khiêm h và tín thác, như mt li xin vâng cui cùng.

Và con v nhà Chúa, để d tic yêu thương muôn đời. Amen.

 

2.     “Phúc thay người nghèo!”

(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên)

Chúng ta đang đón mừng xuân Canh Tý. Trong những ngày Tết cổ truyền của Dân tộc, ai cũng cầu chúc cho nhau sự thành đạt, giàu có, của cải như nước, luôn dồi dào và dư dả. Ấy vậy mà Lời Chúa hôm nay lại chúc phúc cho những người có tâm hồn nghèo khó. Phải chăng đó là một ảo tưởng, một nghịch lý giữa Đạo và đời, giữa Đức tin và cuộc sống?

Lời chúc phúc dành cho người nghèo là mối phúc đầu tiên trong Bài giảng trên núi. Theo Thánh Matthêu, đây là bài giảng khởi đầu sự sứ vụ rao giảng Tin Mừng của Chúa Giêsu. Bài giảng khởi đầu này cũng tóm lược nội dung của giáo huấn mà Người sẽ rao giảng sau này. Bài giảng này cũng phản ánh chính con người của vị ngôn sứ thành Nagiarét, tức là người ta có thể tìm thấy nơi bản thân Người những mối phúc đã được nêu.

Đừng quên một chi tiết quan trọng trong lời giảng của Chúa, đó là “tâm hồn nghèo khó”. Nếu lời chúc phúc của Chúa Giêsu quá ngắn gọn và cô đọng, thì chúng ta có thể tìm thấy lời diễn giải thêm về ý niệm người có tâm hồn nghèo khó trong Bài đọc I trích sách Ngôn sứ Isaia: “Ta sẽ cho sót lại giữa ngươi một dân nghèo hèn và bé nhỏ; chúng sẽ tìm nương ẩn nơi Danh Đức Chúa. Số dân Israel còn sót lại sẽ không làm chuyện tàn ác bất công, cũng không ăn gian nói dối và miệng chúng không còn phỉnh gạt”. Dưới ngòi bút của Isaia, người nghèo đích thực là người cậy dựa phó thác vào Chúa và sống công chính ngay lành đối với tha nhân. Ông cũng tiên báo, những ai thực thi công chính, được gọi là những người nghèo của Thiên Chúa, sẽ làm thành số dân còn sót lại, tức là những người trung thành với Chúa cho đến cùng, là thành phần ưu tuyển của dân riêng. Qua đó, chúng ta thấy giáo huấn Chúa dạy chúng ta: những người nghèo theo nghĩa trên đây sẽ là những người được thừa hưởng gia nghiệp Nước Trời.

Nếu Bài giảng trên núi khởi đầu với lời chúc phúc cho người có tâm hồn nghèo khó, thì có thể nói, bảy lời chúc phúc kế tiếp cũng diễn giải những “người nghèo” được hiểu ở nhiều khía cạnh khác nhau. Quả vậy, người nghèo là người chọn Chúa làm gia nghiệp. Một khi chọn Chúa làm gia nghiệp, họ sẽ cố gắng để sống hiền lành. Họ sẽ than khóc thân phận thụ tạo còn nhiều giới hạn của mình để canh tân bản thân; họ sẽ mong ước được nên công chính; họ sẽ biết cảm thương trước nỗi thống khổ của đồng loại; họ sẽ kết nối tình huynh đệ giữa con người với nhau; họ sẽ cố gắng sống cuộc đời thanh sạch để nên hoàn thiện và họ sẽ sẵn sàng chấp nhận đau khổ vì sống công chính. Như thế, mối phúc “nghèo” là nền tảng cho các mối phúc khác. Đó cũng là điều kiện căn bản để người tín hữu có thể nên hoàn thiện như lời mời gọi của Chúa: “Các con hãy nên hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện”. Một người nghèo sẽ hoàn toàn cậy dựa vào Thiên Chúa và coi Ngài như đích điểm của đời mình, phó thác nơi sự dẫn dắt của Ngài, là Cha nhân hậu và yêu thương.

Như đã nói ở trên, Đức Giêsu không chỉ chúc phúc bằng những lời nói suông. Chính Người đã đạt được những phúc lành trong những lời Người giảng dạy. Trên cây thập giá, Người đã trở nên người nghèo nhất trong số những người nghèo. Người đã đau khổ với người đau khổ, để giúp họ biết cười vui trong niềm phó thác và tin tưởng vào Thiên Chúa là Cha. Cũng trên cây thập giá, Người đã hòa giải muôn loài với Chúa Cha, để dẫn đưa con người tới bến bờ của hạnh phúc. Chính Người đã chịu bách hại cách bất công vì Chân lý và để diễn tả tình thương vô bờ của Thiên Chúa Cha đối với nhân loại. Chúa Giêsu là LỜI CHÚC PHÚC vĩ đại nhất của Thiên Chúa cho nhân loại. Người là mẫu gương cho hết thảy mọi người chúng ta.

Có bao giờ chúng ta cảm nghiệm được hạnh phúc khi là người Công giáo? Có khá nhiều người tín hữu sống Đạo theo thói quen. Việc tham dự Thánh lễ và các bí tích không thực sự đem lại cho họ niềm vui, vì họ chỉ làm chiếu lệ, hời hợt bên ngoài. Nếu chúng ta không cảm thấy hạnh phúc khi thực hành sống Đạo thì làm sao có thể thuyết phục người khác theo Đạo của chúng ta được. Tám mối phúc thật là những gợi ý cụ thể để chúng ta nên thánh. Tám mối phúc là tám ngả đường, cùng dẫn chúng ta đến gặp Thiên Chúa Tình Yêu. Ước chi những anh chị em không cùng tôn giáo nói về chúng ta: “Thật hạnh phúc khi được làm người Công giáo!”.

Trong những Chúa nhật đầu của mùa Thường niên, qua Phụng vụ Lời Chúa, Giáo Hội mời gọi chúng ta cất bước theo Chúa Giêsu bằng việc chuyên tâm thực hiện những điều Người chúc phúc. Chúng ta gọi những lời chúc phúc này là “Tám mối phúc thật”, tức là hạnh phúc lâu bền, có sức cảm hóa cá nhân mỗi người và góp phần lan tỏa sự thánh thiện trong thế giới hôm nay. Giữa một xã hội bát nháo điên đảo và đầy bạo lực, những ai trung thành tìm kiếm Chúa sẽ được gọi là những người khôn ngoan và họ sẽ đạt tới hạnh phúc thật.

 

3.     Hạnh phúc – ĐGM. Cosma Hoàng Văn Đạt

Trong những ngày đầu xuân, chúng ta thường mơ ước hạnh phúc và chúc nhau hạnh phúc. Tìm hạnh phúc ở đâu? Ai chỉ cho biết con đường dẫn đến hạnh phúc? Đó là hai câu hỏi của mọi người. Điều ít ai ngờ là đó chính là hai câu hỏi do hai thánh vịnh đã đặt ra từ lâu lắm rồi.

Trong thâm tâm, ai cũng đi tìm hạnh phúc. Người nông dân vất vả cày cấy cũng như người học sinh cặm cụi học hành, tất cả đều đang đi tìm hạnh phúc. Nhiều người vướng vào ma túy cũng vì nghĩ rằng ma túy sẽ mang lại hạnh phúc. Ngay cả người đi ăn cướp cũng đi tìm hạnh phúc: người ấy nghĩ rằng những gì cướp được sẽ mang lại cho mình hạnh phúc. Có người làm đơn xin vào tù: người ấy nghĩ rằng vào tù ít là cũng hạnh phúc hơn cuộc sống đang có. Thậm chí có người tìm đến cái chết để thoát cuộc sống bất hạnh: người ấy không tìm được hạnh phúc nên không còn thiết sống nữa.

Ngoài Chúa ra, đâu là hạnh phúc? (Tv 15,2). Tác giả thánh vịnh 15 hẳn là sống giữa những người chưa biết Thiên Chúa. Họ thờ các ngẫu tượng, mong các vị thần đem lại cho họ hạnh phúc. Nhưng tác giả ghi nhận: bản thân từng “sùng mộ” những ngẫu tượng; “thiên hạ tới tấp chạy theo” các ngẫu tượng; trong khi ấy, các ngẫu tượng “vẫn gia tăng tàn phá”. Giờ đây, tác giả nghiệm ra chỉ một mình Thiên Chúa mới đem lại hạnh phúc thật cho con người: Chúa s dy con biết đường v cõi sng; trước thánh nhan, ôi vui sướng tràn tr; bên Ngài, hoan lc chng h vơi. Con người thời nay không chạy theo các tượng bằng gỗ đá, nhưng vẫn tôn thờ các thần tượng thể thao, ca nhạc, điện ảnh, tiền bạc, danh vọng, quyền lực… Nhưng càng ngày những người biết thức tỉnh càng ý thức con người không chỉ có nhu cầu vật chất, mà còn có nhu cầu văn hóa và nhu cầu tâm linh nữa. Các thứ thần tượng ấy chỉ đem lại thỏa mãn hời hợt và mau qua. Thánh Âutinh viết: “Chúa đã dựng nên con cho Chúa, nên con khắc khoải cho tới khi tìm được an nghĩ trong Chúa.” Câu hỏi đặt ra cho tôi hôm nay là tôi có tìm được hạnh phúc nơi Thiên Chúa chưa. Có thể tôi vẫn “đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt?” Sau những loanh quanh và mỏi mệt, xin cho tôi chia sẻ xác tín của tác giả thánh vịnh: Ngoài Chúa ra, đâu là hạnh phúc?

Biết bao kẻ nói rằng: “Ai sẽ cho ta thấy hạnh phúc?” (Tv 4,7). Chúa Giêsu là một con người hạnh phúc và Chúa chỉ cho ta những con đường để đạt tới hạnh phúc. Điều khó là chúng ta thường muốn tìm những thứ hạnh phúc dễ dãi, trong khi Chúa chỉ cho chúng ta đâu là hạnh phúc sâu xa và bền vững. Khi sống những mối phúc thật, trong đời sống cá nhân, gia đình và xã hội, chúng ta sẽ nghiệm ra thế nào là hạnh phúc thật và ai là người chỉ cho chúng ta thấy hạnh phúc. Và qua chính cuộc sống hạnh phúc của mình, chúng ta trả lời cho thắc mắc của biết bao người về hạnh phúc.

Ly Chúa Giêsu, Chúa đã ch cho chúng con thy đâu là hnh phúc, và Chúa đã theo con đường y đến cùng. Xin gii thoát chúng con khi nhng thn tượng thi nay và bước theo Chúa để tìm được hnh phúc tht cho bn thân cũng như cho bao anh ch em khác.

 

4.     Chúa muốn con người hạnh phúc

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

Chúa nhật thứ 4 thường niên A năm nay trùng vào ngày Mùng Hai Tết Nguyên Đán năm 2017, thật là ý nghĩa khi chúng ta nghe lại đoạn Tin Mừng (Mt 5, 1-12a) đọc trong Thánh lễ Giao thừa, chúng ta có thể khẳng định rằng: Thiên Chúa muốn, chúng ta là những người hạnh phúc. Suy diễn này không có quá ảo tưởng, vì vào khởi đầu của Kitô giáo, các thành phần của Giáo hội cũng được gọi là “những người diễm phúc”. Thiên Chúa là Hạnh Phúc, Ngài luôn muốn chúng ta hạnh phúc, nên Ngài thi ân giáng phúc cho chúng ta. Ngài muốn chúng ta không chỉ hạnh phúc tạm thời, mà còn hạnh phúc luôn mãi cả đời này và đời sau. Quả thực, người kitô nhờ Bí tích Rửa tội, được kết hiệp với Chúa Giêsu là Quả Phúc nơi cung lòng Đức Maria là Đấng đầy ơn phúc, nên chúng ta hạnh phúc là lẽ đương nhiên.

Ngày đâu năm, chúng ta đã đi chúc tết nhau, ngoài bánh chưng, bánh tét, hoa đào, hoa mai… có lẽ không gì nhiều bằng “lời chúc”. Ai cũng muốn dành những lời chúc tốt đẹp nhất cho gia đình, người thân, bạn bè trong những ngày này và ngược lại, ai cũng muốn mình được nhận nhiều những lời chúc. Về phương diện con người, điều đầu tiên trong năm mới chúng ta cầu chúc cho nhau là bình an, hạnh phúc, vui vẻ, may mắn… người có đạo còn chúc nhau được đầy niềm vui và phúc lành của Thiên Chúa.

Về phía Thiên Chúa, vì Ngài là nguồn mạch mọi ân phúc, Ngài yêu thương con người và hằng mong muốn con người được hạnh phúc, Ngài sẵn sàng chúc phúc cho chúng ta. Ngài vui khi nhìn thấy chúng ta mạnh khoẻ, cả về thể xác lẫn tâm hồn. Cha mẹ nào mà không vui khi thấy con cái mình lớn lên, khôn ngoan, khoẻ mạnh, huống chi là Thiên Chúa, Đấng đã dựng nên chúng ta, không để chúng ta hư không đời, mà lại sinh ra ta cho ta được làm người…lại cho Ngôi Hai Xuống thế làm người để cứu độ, giải thoát ta khỏi mọi tội lỗi và sự dữ, cứu chúng ta khỏi án phạt đời đời. Đoạn Tin Mừng đọc trong Thánh lễ hôm nay minh chứng rõ ràng rằng, Thiên Chúa muốn, chúng ta là những người hạnh phúc (x. Mt 5, 1-10).

Hạnh phúc thật theo Chúa Giêsu phán trong Tin Mừng (Mt 5:1-12) nghe xong nhiều người không khỏi ngạc nhiên và sửng sốt, bởi vì những người mà người đời coi là khờ dại, bất hạnh và đáng thương hại theo Chúa Giêsu lại là những người có phúc. Lý do là vì họ sống tinh thần nghèo khó, mặc dù họ giàu sang, có tiền của. Sống tinh thần nghèo khó, không cậy dựa vào tiền của, nhưng phó thác vào quyền năng của Chúa. Họ còn là những người hiền lành, những người đau khổ, những người đói khát sự công chính, những người có lòng trong sạch, những người ăn ở thuận hoà và những người bị bách hại vì lẽ công chính. Đó là những người được Thiên Chúa chúc phúc.

Chúa Giêsu là hiện thận của Chúa Cha là Hạnh Phúc, Người cũng muốn chúng ta có được hạnh phúc, nên đã vạch ra cho chúng ta con đường Tám Mối Phúc Thật để tất cả chúng ta đi theo mà trở thành phúc nhân. Con đường Chúa đã đi khi còn sống thân phận lữ thứ trần gian như chúng ta: Phúc cho những ai nghèo khó trong tinh thần, phúc cho những ai đau khổ, phúc cho những kẻ hiền lành, phúc cho những ai đói khát sự công chính, phúc cho những kẻ có lòng nhân từ, phúc cho những ai có lòng trong sạch, phúc cho những ai hoạt động cho hoà bình, phúc cho những ai bị bách hại vì lẽ công chính (x. Mt 5, 3-10).

Trước thềm năm mới, chúng ta hãy khẩn cầu các thánh là những người đã được xem là phúc nhân, đặc biệt xin Mẹ Maria, là ‘Đấng đầy ơn phúc’, giúp con cái Mẹ trở thành những phúc nhân trong năm mới, nhất là trước tòa Chúa Giêsu Kitô, Con Mẹ đến muôn thủa muôn đời! Amen.

 

5.     Những người được chúc phúc

(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)

Thường người ta nghĩ rằng, những người được chúc phúc là những người giỏi, thông thái, người giầu sang, người có sức mạnh, người được việc, người thành công trên đời. Nhưng Lời Chúa hôm nay cho chúng ta cái nhìn khác. Những người được chúc phúc là những người nghèo, người hiền lành, người thương cảm người, người nhân ái, người kiến tạo hoà bình, người đơn sơ trong sáng, người khao khát điều tốt lành, và cả những người bị bách hại nữa.

  1. Phải chăng người giầu hạnh phúc

Tiền bạc là một yếu tố rất quan trọng trong đại đa số đời sống con người. Nó ảnh hưởng đời sống gia đình, ảnh hưởng tâm lý cá nhân, và đôi khi là yếu tố chính yếu chi phối đời sống cá nhân và gia đình. Tiền bạc ảnh hưởng đặc biệt trên những người coi tiền bạc là quan trọng. Với những người này, “đồng tiền là Tiên là Phật”, đồng tiền có thể điều khiển tất cả, thậm chí cả lề luật: “kim ngân phá lề luật”. Dùng tiền, người ta mua được tất cả: “có tiền mua tiên cũng được”. Với những người này, tiền bạc có thể mua được vợ được chồng (nhưng họ không mua được tình yêu), có thể mua được hạnh phúc kiểu “nhất dạ đế vương” (nhưng họ không mua được hạnh phúc sâu thẳm trong tâm hồn mà bình an là dấu chỉ).

Trên đời, rất nhiều người đi tìm tiền bạc. Họ nghĩ rằng có tiền, là có quyền lực, danh giá, được trọng vọng, và hạnh phúc. Tuy vậy, thực tế không hoàn toàn như vậy. Bao nhiêu người giầu sang cũng khổ. Chưa đủ làm con người hạnh phúc khi chỉ thoả mãn những đòi hỏi vật chất. Gia đình là một yếu tố rất quan trọng. Nếu có tiền của, mà có người vợ hoặc chồng không chung thuỷ, mà con cái hư hỏng, thì làm sao người đó hạnh phúc được. Tiền bạc, không là một yếu tố làm người chồng hoặc vợ chung thuỷ, làm con cái ngoan và tốt lành. Nếu một người coi tiền bạc là quan trọng, và người chồng hoặc vợ, con cái họ cũng quan niệm như vậy, thì điều gì sẽ xảy ra? Những người này có thể nghĩ: tại sao tôi phải trung thành với người chồng hay vợ của tôi, khi người khác có thể cung cấp cho tôi hơn điều người chồng hay vợ hiện tại cung cấp cho tôi, tại sao tôi phải trung thành khi tôi thích người này người kia, tại sao tôi phải “sống tốt” theo tiêu chuẩn luân lý, mà cha hoặc mẹ tôi không sống theo đó. Tiền bạc là tên đầy tớ tốt, nhưng là ông chủ gian ác. Nếu người nào coi tiền bạc như phương tiện, người đó sẽ tốt; nhưng nếu ai coi tiền bạc là nhất, và họ chỉ biết đi tìm tiền, thì họ sẽ bất hạnh.

Biến cố của những cuộc đảo chánh chính trị, những cuộc chiến tranh, những tai họa, chẳng hạn cuộc đảo chánh tổng thống Ngô Đình Diệm, biến cố 30 tháng 4, biến cố 11 tháng 9 ở World Trade Center, cuộc chiến Afganistan mới đây. Bao người giầu và quyền thế, bỗng chốc trở thành bình thường. Những biến cố đó, tuy dù tiêu cực, nhưng cũng giúp con người nhận ra sự thật về con người.

  1. Nghèo làm sao hạnh phúc

Những người bị bách hại, là những người không còn hoặc không có quyền lực, bị người khác đàn áp và làm khổ. Mạng sống họ bị đe doạ, nhân phẩm không được tôn trọng, không có quyền lợi; tất cả những điều này giúp họ nhận ra điều gì trường tồn, đâu là giá trị thật trên đời. Trong hoàn cảnh khốn cùng, họ nhận ra giá trị đích thực của giầu có, tài năng, và chức vị. Thiên Chúa lúc đó là hy vọng cuối cùng của họ.

Khi một người nhận biết thực tại quan trọng “Thiên Chúa và con người”, và rồi thương cảm người bất hạnh, thương những người túng thiếu, thương cảm những người đang bị nô lệ bởi bao ràng buộc vật chất và tinh thần, và sẵn sàng giúp đỡ những người này, thì họ là những người được chúc phúc. Họ hạnh phúc ngay trong cuộc sống này.

Lời Chúa trong thư gởi tín hữu ở Corintô cho thấy, đa số các Kitô hữu không là những người khôn ngoan thông thái theo tiêu chuẩn người đời, không phải là những người giầu sang quý phái, không phải là những người thế lực, nhưng Thiên Chúa đã chọn để mặc khải cho họ biết điều làm con người hạnh phúc.

  1. Hạnh phúc đích thực

“Cái vòng danh lợi cong cong, kẻ hòng ra khỏi người mong được vào”. Có nhiều người sau một thời gian dài trong cuộc sống, mới nhận ra điều mà các Kitô hữu được nhận biết qua lời dạy của Chúa về tiền bạc, về danh vọng, về quyền lực. Họ phải trả một giá khá đắt để nhận ra bài học đó, và đôi khi khá trễ trong đời.

Hạnh phúc đích thực hệ tại một đời sống trong sáng, coi con người là quan trọng, yêu thương giúp đỡ người khác, nhân ái tha thứ những lỗi lầm của con người. Hạnh phúc ở đây không nhằm thoả mãn những đòi hỏi của xác thịt vật chất, nhưng là hạnh phúc khi thấy người khác vui và hạnh phúc, khi thấy mình giúp người khác bớt buồn và vui hơn.

Hạnh phúc đích thực có Thiên Chúa là nền tảng. Hạnh phúc đích thực không chỉ là hạnh phúc đời sau, nhưng là hạnh phúc ngay ở đời này. Niềm vui con người cảm nghiệm từng ngày trong đời, khi họ nhận ra những hồng ân Thiên Chúa ban, khi họ nhận ra Thiên Chúa dùng mình để giúp người khác nhận ra sự thật, giúp người khác được giải phóng khỏi quan niệm sai lầm để vui sống.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

  1. Xin bạn kể một vài người giầu không hạnh phúc, một vài người nghèo hạnh phúc mà bạn biết qua kinh nghiệm.
  2. Đâu là những bất lợi của giầu và nghèo? Nếu được chọn giữa giầu và đẹp (nữ), giữa giầu và giỏi (nam), bạn chọn điều nào? Tại sao?
  3. Hiện tại bạn có hạnh phúc không? Tương lai bạn có thể hạnh phúc không? Tại sao?

 

6.     Chỉ mong Ngài lấy đi

(Suy niệm của Lm. Giuse Trương Đình Hiền)

Trong những ngày Tết vừa qua, có lẽ cái từ được nhắc đến nhiều nhất đó là từ “PHÚC”; bởi chưng, đó chính là một từ mà nội hàm mang đậm ý nghĩa của lời chúc, của ước mơ, của niềm hy vọng…đẹp nhất dành cho nhau trong những ngày đầu năm. Chính vì thế, cố hiền nhân thi sĩ Nguyễn Công Trứ đã “nhân cách hóa” chữ “PHÚC” (“ÔNG PHÚC”) trong câu đối Tết để đời:

“Chiều ba mươi nợ réo tít mù, co cẳng đạp thằng bần ra cửa,

Sáng mồng một rượu say túy lúy, giơ tay bồng ông Phúc vào nhà”.

Quan niệm và triết lý của Á Đông-Trung Hoa về “PHÚC” rất phong phú và tế vi. Điều nầy được dẫn chứng qua chính hình tượng chữ PHÚC (福) hình thành bởi bộ Thị (hoặc Kỳ 示) có hình dạng “Bàn thờ” và ký tự PHÚC (畐) được ghép bởi 3 tự: NHẤT (一), KHẨU (口), ĐIỀN (田) có hình dạng “Đôi tay nâng bình rượu” (Hình thức ký tự theo Giáp Cốt Văn) [1]. Qua cách chiết tự đó, nhiều người đã định nghĩa PHÚC chính là cuộc sống yên vui, đầy đủ như bình rượu đầy tràn dâng cúng thần linh[2]. Và cũng theo quan niệm và văn hóa Trung Hoa được ghi lại trong KInh Thi, cái Phúc tròn đầy luôn bao gồm 5 điều (NGŨ PHÚC): thọ (sống lâu), phú (giàu có), khang ninh (mạnh khoẻ bình an), du hảo đức (đức tốt lâu dài), khảo chung mệnh (chết già, chứ không phải chết non hoặc chết vì tai nạn). Cũng có nguồn khác cho rằng, “NGŨ PHÚC” bao gồm: phú, quý, thọ, khang, ninh”. Phú là giàu. Quý là sang. Thọ là sống lâu. Khang là mạnh khỏe. Ninh là bình an.[3]

Trong khi đó, giáo huấn xuyên suốt của truyền thống mạc khải Cựu Ước thì dạy rằng: hạnh phúc đích thực đó chính là Thiên Chúa; cụ thể hơn, đó là được sống gần gũi, thân mật với Thiên Chúa (Câu chuyện sáng tạo và vườn địa đàng: St 1-2; chuyện tổ phụ Hênóc được đem đi: Kn 5,24; Êlia được cất đi: 2 Vua 2,11… để ở với Thiên Chúa trong một không gian đặc biệt; hạnh phúc cũng chính là được ở với Thiên Chúa ngay nơi thánh điện của trần gian (Tv 63); và nhất là khi thực thi thánh chỉ của Thiên Chúa (Tv 1), là bước đi và chọn lựa “sự khôn ngoan” như là hiện thân chính Chúa và ân điển của Ngài (Châm Ngôn 3, 13-18 và Giảng Viên 14,20-15,10)…Vì thế, có thể tóm kết quan niệm về phúc của Cựu ước qua câu nói của một hiền nhân trong sách Gióp: “Hãy sống thân tình với Thiên Chúa và xây dựng bình an, anh sẽ tìm lại được hạnh phúc” (G 22, 21).[4]

Từ truyền thống giáo huấn đó, các ngôn sứ không ngừng gióng lên sứ điệp canh tân và hoán cải mỗi khi dân Ít-ra-en đi lạc xa đường lối huấn lệnh của Thiên Chúa, tìm kiếm hạnh phúc ảo tưởng nơi những thực tại trần thế, nơi các thần tượng giả trá, nơi sự giàu có thế gian và quay lưng lại với Thiên Chúa. Có thể nói, sứ điệp canh tân và hoán cải của các ngôn sứ tập chú vào chính nội dung nầy: Thiên Chúa chính là gia nghiệp, là điểm tựa; và con người chỉ thực sự hạnh phúc khi nhận ra thân phận khó nghèo, nhỏ bé của mình để tựa nương và phó thác nơi Thiên Chúa, như lời của ngôn sứ Sôphônia trong Bài đọc 1 hôm nay:

Ta sẽ cho sót lại giữa ngươi một dân nghèo hèn và bé nhỏ;

chúng sẽ tìm nương ẩn nơi danh ĐỨC CHÚA.

Số dân Ít-ra-en còn sót lại

sẽ không làm chuyện tàn ác bất công,

cũng không ăn gian nói dối

và miệng lưỡi chúng sẽ không còn phỉnh gạt.

Nhưng chúng sẽ được chăn dắt và nghỉ ngơi

mà không còn bị ai làm cho khiếp sợ. (Xp 3,12-13)

Nối tiếp truyền thống của các sứ ngôn và đưa tới một bình diện cụ thể hơn, rõ nét hơn, Đức Kitô đến loan báo: “Phúc cho ai khó nghèo, vì Nước Trời là của họ”. Toàn bộ bài giảng “Tám Mối Phúc Thật” mà Tin Mừng Matthêô vừa nhắc lại cho chúng ta là “bản đúc kết” súc tích về con đường hạnh phúc đích thực Thiên Chúa đề nghị cho con người và cũng là “lời chúc thân thương của Thiên Chúa” dành cho những ai đang dấn thân trên con đường phúc thật ấy.

Để cảm nhận được những lời chúc phúc nầy, hay nói cách khác, để cảm nhận những ai thực sự là “kẻ nghèo có phúc”, chúng ta thử lắng nghe những dòng suy niệm của nhà chú giải Kinh Thánh Noel Quesson:

“Đức Giêsu là Đấng “Mêsia của người nghèo”. Chính Người đã sống khó nghèo; nhiều lần Người đã cho thấy Người thích hướng về phía nào”. Dĩ nhiên, Người đã hiệp thông trong thân xác và trong cảm thức con người với điều kiện khắc nghiệt của những ai thiếu thốn. Khi chia sẻ thân phận của họ từ lúc nằm trong máng cỏ cho đến lúc bị đóng đinh, “không có một viên đá để kê đầu!”, Người đã cảm thấy một trái tim huynh đệ đang đập vì họ. Là Đấng Mêsia của người nghèo bị Do Thái giáo của giới trí thức Giêrusalem khinh bỉ, Đức Giêsu đã đau khổ như những “người phận nhỏ” và “cùng với họ” bị những “người có của” lăng nhục, khinh khi. Ôi ! sự khinh miệt đáng sợ ấy thường là vô thức đối với sự nghèo khó từ phía những kẻ no nê và cười ngạo nghễ. Vậy Đức Giêsu hứa hẹn gì với những người nghèo ấy ?

Nước Thiên Chúa là của anh em… Thiên Chúa sẽ cho anh em được no lòng… anh em sẽ được vui cười…”[5]

Và rồi, tiếp bước theo Chúa Giêsu nghèo khó để cũng trở thành “kẻ nghèo có phúc”, Tin Mừng dã kể cho chúng ta:

– Giàu có ổn định với bàn đếm tiền của nghề thuế vụ, Lêvi đã chọn một “kẻ nghèo có phúc” để trở thành một Matthêô Tông đồ, theo chàng thợ mộc Giêsu sống đời “màn trời chiếu đất” để dấn thân cho công cuộc rao giảng Tin Mừng Nước Trời.

– Giàu có như ông ty trưởng Thuế vụ Gia-kê, nhưng ông vẫn là “kẻ nghèo có phúc”, vì ông đã dám tước bỏ cái địa vị cao sang để trèo lên cây sung mà nhìn Đức Kitô, rồi sau đó là cuộc đổi đời để yêu thương và chia sẻ.

– Bụi đời như cô gái làng chơi M.Mađalêna, nhưng lại là “kẻ nghèo có phúc” vì cô đã biết nhỏ những giọt nước mắt sám hối để xin ơn tha thứ và mau mắn làm người đưa tin Chúa sống lại.

– Phản bội như Phêrô 3 lần chối Chúa, nhưng cũng là “kẻ nghèo có phúc” vì ông đã khóc lóc trở về để biến cuộc đời thành một lời đáp tín trung: “Bỏ Thầy con biết đến với ai, vì Thầy có Lời ban sự sống đời đời”.

– Trần trụi khốn nạn như tên trộm bên hữu Chúa vào chiều Thứ Sáu Khổ nạn, nhưng anh ta là “kẻ nghèo có phúc” khi biết ngước mắt về phía Chúa để thân thưa: “Xin nhớ đến tôi khi Ngài vào Nước Ngài hôm nay”, và tức khắc đã được đáp trả: “Hôm nay anh sẽ ở trên thiên đàng với tôi”…

Và chúng ta không quên dụ ngôn “Người Pharisiêu và người thu thuế lên đền thờ cầu nguyện”. Chúa Giêsu đã kết luận: “Người nầy ra về sẽ nên công chính, còn người kia thì không”. Người được nên công chính đó chính anh chàng thu thuế đứng cuối đền thờ đấm ngực ăn năn: “Lạy Chúa, xin xót thương con, vì con là kẻ có tội”. Quả thật anh chính là “kẻ nghèo có phúc” vì chấp nhận thân phận yếu hèn tội lỗi để phó thác cho lòng xót thương của Thiên Chúa bao dung…

Và nối tiếp “đường đi của Tin Mừng” đó, suốt 2000 năm nay đã có biết bao nhiêu “kẻ nghèo có phúc”, như Anê, Cê-ci-li-a, Au-gus-ti-nô, Mo-ni-ca, Tê-rê-xa hài đồng, Phan-xi-cô As-si-si…như cha thánh Maximilien Kolbe, như Mẹ Thánh Têrêxa thành Calcutta, như Á Thánh An-rê Phú Yên, Các Thánh Tử đạo Việt nam…và hằng ngày, khắp nơi hôm nay, có biết bao nhiêu người dám “đập bể bình dầu thơm quí giá cuộc đời”, dám “bán đi những thửa ruộng màu mỡ cuộc sống” để phục vụ Đức Kitô trong đời thánh hiến, trong chức linh mục, trong vai trò giáo lý viên, tông đồ giáo dân…Trước mặt người đời, trong bậc thang xã hội hoặc với sinh mệnh chính trị, có thể họ là những kẻ thấp cổ bé miệng, là những người bị trù dập bách hại, là những thức “rác rưởi bỏ đi”, nhưng, như lời Thánh Phaolô trong Bài Đọc II hôm nay: “Những gì thế gian cho là điên dại thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ khôn ngoan, và những gì thế gian cho là yếu kém, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ hùng mạnh…”.

Thế nhưng, ngày hôm nay người ta hay dị ứng với chữ “nghèo”, mặc cảm với cái nghèo; và nói tới nghèo là cứ nghĩ ngay tới “miếng cơm manh áo, cái xe, cái nhà, con đi học, bệnh tật thuốc thang…”. Và cũng chính vì thế càng lúc con người càng trở nên nghèo nàn thực sự về phương diện tâm linh, khi cứ tất bật toan tính toàn chuyện làm ăn, “phá lẫm cũ xây lẫm mới”, để rồi khép kín trái tim và tâm hồn trước Thiên Chúa và anh em đồng loại.

Cơn đại dịch “Coronavirus” (Hay còn được gọi nôm na là “dịch cúm Vũ Hán) đang làm rung chuyển thế giới từ những ngày đầu năm Canh Tý, và là một cảnh báo thẳng thừng: vật chất, khoa học, kỷ thuật, kinh tế, chính trị…không bao giờ là là một bảo đảm cho hạnh phúc của nhân loại. Chỉ một con virus nhỏ thôi cũng đủ làm tiêu vong mọi thứ. Chính vì thế, chúng ta cần tìm kiếm một con đường khác, một bảo đảm khác cho hạnh phúc đích thực. Đó là con đường “Phúc thật của Tin Mừng”, một con đường “hẹp”, một con đường “chông chênh” và đôi khi trở thành “ngược dòng” đối với tâm thức của nhân loại muôn nơi muôn thuở.

Nhắc tới cơn “đại dịch Vũ Hán” hôm nay, chúng ta đừng quên một truyền thuyết của nhà Phật: “chiếc trâm của người thiếu phụ nghèo Lộc Nương”:

Thiếu phụ nghèo Lộc Nương chỉ có một chiếc trâm cài tóc bằng gỗ, đã thể hiện lòng thành, cúng cây trâm cho chùa Tế Vũ để đúc chuông trừ tà dịch. Sư đúc chuông lấy vàng bạc đúc còn chiếc trâm ném đi. Chuông đúc 3 lần không kêu lại có in lõm hình chiếc trâm trên thân. Sau nhớ lại, thành tâm sám hối, quyết tìm lại chiếc trâm, chuông tự động kêu vang và hình cây trâm vá lại chỗ lõm. Tà dịch được xua trừ.

Vâng, thế giới hôm nay, cuộc đời hiện tại luôn cần những “chiếc trâm của người thiếu phụ nghèo Lộc Nương”, luôn cần những kẻ như Phanxicô Assisi (1181-1226), không những là chứng nhân tiêu biểu của Đức Khó Nghèo Kitô giáo, của Tin Mừng Bát Phúc, mà còn là người đã trân trọng “đính hôn cuộc đời với cô Khó Nghèo”, một ý tưởng, một nhân đức, một quan niệm sống… được ngài nhân cách hoá như một ngôi vị: CÔ NGHÈO (LADY POVERTY)[6]

Tuy nhiên, con người thường quay lưng trước những đòi hỏi của Tin Mừng, như người thanh niên giàu có đã sụ mặt bỏ đi khi nghe Chúa Giê-su mời gọi: “Con hãy về bán hết mọi của cải, bố thí cho kẻ nghèo, rồi đến theo Ta”…, nên lời nguyện sau đây của đại thi hào Tagore vẫn còn cần thiết cho mỗi người chúng ta:

Chỉ mong Ngài lấy đi

Mong chẳng còn gì thuộc về con

Mong chẳng còn gì là của con

Để con được trắng tay

Con chỉ còn Ngài để giữ lấy

Con được chọn Chúa mãi là của con

Chỉ mong Ngài xoá đi

Mong chẳng còn gì để chiếm hữu

Mong chẳng còn gì ràng buộc con

Để con được ngước lên

Con tìm được Ngài là chân lý

Con được cùng Chúa đồng hành luôn

Chỉ mong Ngài cất đi

Mong chẳng còn gì để nắm giữ

Mong chẳng còn gì mà tự tôn

Để con chỉ biết yêu

Yêu một mình Ngài trọn đời con

Con nhìn nhận Chúa chính Nguồn Tình Yêu.

————-

[1] Giáp Cốt Văn: Một kiểu ký tự chữ Hán cổ trên mai rùa (Giáp) và xương thú (Cốt). Nguồn: thuphapdungpham.com

[2] Nguồn: thuphapdungpham.com

[3] Nguồn: mynghehaiminh.vn

[4] Xem thêm 2 bài viết của hai tác giả sau:

– Lê Phú Hải OMI: Quan niệm hạnh phúc theo Kinh Thánh Cựu Ước. Nguồn: hoaxuongrong.org

– Lm. Thái Nguyên: Hạnh phúc trong cuộc đời. Nguồn: simonhoadalat.com

[5] Noel Quesson: Chúa Nhật VI Thường niên C. Nguồn: Trang mạng giáo phận Phú Cường: giaophanphucuong.org

[6] Trang bách Khoa Toàn Thư mở Wikipedia: “Người ta kể lại rằng khi cố từ chối những trò giải trí và những buổi hội hè đình đám với bạn bè, những người này trêu chọc Francis và hỏi có phải cậu sắp kết hôn không, câu trả lời là “phải, với một cô dâu đẹp hơn bất cứ người phụ nữ nào mà các cậu từng gặp” – Francis ngụ ý “sự nghèo khó” (lady poverty), một thuật từ mà ông thường sử dụng sau này.”

 

7.     Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành

Là con người, ai trong chúng ta cũng mong muốn được hạnh phúc, nhưng quan niệm về hạnh phúc thì khác nhau: Có người cho rằng hạnh phúc là có nhiều tiền bạc của cải; có người cho rằng hạnh phúc là có vợ đẹp con khôn; có người cho rằng hạnh phúc là có quyền cao chức trọng; có người cho rằng hạnh phúc là được sống lâu…

Chính vì quan niệm như thế, cho nên có những người đang dùng những mánh khóe lừa gạt để kiếm cho được nhiều tiền, bất chấp luân thường đạo lý, lẽ công bằng. Họ đang tích trữ kho tàng vật chất để sống hưởng thụ mà quên đi tình bác ái với anh chị em đồng loại; có những người đang tự hào về sắc đẹp của mình, thậm chí dùng sắc đẹp để thỏa mãn dục vọng, phỉnh gạt người khác nên đã gieo biết bao đau khổ cho tha nhân; có những người đang cố gắng dùng quyền lực để cai trị, để kiếm chác nên đã làm khổ dân nước…

Tôi có một người bạn, thi trường Đại Chủng viện 3 lần đều rớt, nên anh tìm đến dòng tu. Ở được một năm thấy không hợp, anh ta trở về cưới vợ. Sau một thời gian gặp lại, anh ta kể cho tôi nghe về vợ con, nhà cửa, nghề nghiệp và mọi thứ. Anh ta rất bằng lòng với cuộc sống của mình. Tôi nhận thấy anh ta rất hạnh phúc. Nhưng sau đó, tôi lại nghe tin vợ anh ta dính líu vào vụ làm ăn gian lận sao đó, nợ nần chồng chất. Người ta thay nhau đến đòi nợ. Nhà cửa, tài sản, đất đai của gia đình anh ta không cánh mà bay. Cuối cùng, vợ anh ta bỏ trốn. Anh ta trở thành cái bia để cho người ta xỉ vả, chửi bới.

Hóa ra, những thứ hạnh phúc ở đời này quá mong manh: vợ đẹp con khôn, chức quyền danh vọng, của cải… có thể nay còn mai mất. Vì thế, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói rằng: “Đặt niềm tin nơi ta, hay nơi của cải, tiền bạc, quyền lực, rất có thể chúng sẽ mang đến cho ta “một cảm giác sung sướng nhất thời, một ảo tưởng hạnh phúc” và cuối cùng, “chúng sẽ chiếm hữu ta, khiến ta luôn muốn có nhiều hơn, không bao giờ được thoả mãn.” Pic de la Mirandole cũng đã nói: “Tìm hạnh phúc nơi tạo vật là một điên khùng. Hạnh phúc thật chỉ có thể gặp thấy trong Thiên Chúa.”

Thật vậy, chỉ có Chúa và những gì thuộc về Chúa mới là hạnh phúc vĩnh cửu. Thánh nữ Têrêxa Avilla đã nói: “Tất cả sẽ qua đi, chỉ mình Chúa mới tồn tại muôn đời.” Thánh Augustinô sau một thời gian đi tìm khoái lạc, hạnh phúc ở đời này, cuối cùng cũng đã thú nhận rằng: “Lạy Chúa, Chúa dựng nên con cho Chúa, linh hồn còn vẫn còn khắc khoải lo âu cho đến khi được yên nghỉ trong Chúa.”

Nhưng để có hạnh phúc vĩnh cửu nơi Chúa, chúng ta phải thực hành những gì Chúa dạy, phải đi con đường Chúa đã đi. Con đường đó, các Thánh cũng đã từng đi qua. Đó không phải là con đường rộng rãi thênh thang, con đường của êm ái mà là con đường của hy sinh, từ bỏ, con đường của thập giá. Con đường đó là con đường của Tám Mối Phúc Thật mà chúng ta vừa nghe qua đoạn Tin mừng hôm nay (x. Mt 5,1-12a): Đó là biết sống tinh thần nghèo khó, biết sử dụng tốt những của cải Chúa ban, biết sẻ chia cho những người đói khát, nghèo nàn; đó là biết sống hiền lành, cư xử nhẹ nhàng, mềm dẻo với những người xung quanh; đó là biết khóc lóc, sầu buồn, hối hận vì những lỗi lầm mình đã gây nên, giống như thánh Phêrô đã ăn năn khóc lóc mỗi khi gà gáy vì nhớ đến tội chối Chúa của mình; đó là biết khao khát điều công chính, mong muốn mình trở nên tốt hơn, hoàn thiện hơn; đó là biết thương xót người, nhất là những người cô thế cô thân, những người sống bên lề của xã hội, giống như gương của Mẹ Thánh Têrêxa Calcutta: “Hạnh phúc có nghĩa là yêu như Chúa đã yêu, giúp đỡ như Người đã giúp đỡ, hy sinh như Người đã hy sinh, phục vụ như Người đã phục vụ…”; đó là biết sống trong sạch trong tư tưởng, lời nói, việc làm; đó là biết xây dựng sự hòa bình, hòa thuận, không gây gỗ, chia rẽ, bất hòa với ai. Nếu lỡ bất hòa với ai thì biết làm hòa trước khi mặt trời lặn hoặc trước khi lên dâng của lễ trên bàn thờ; đó là biết bênh vực cho công lý và sự thật dầu có phải chịu đựng sự bách hại vì lẽ công chính: “Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân; vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ, chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời.” (Lời kinh hòa bình của Thánh Phanxicô Assisi).

Vậy, chúng ta đang đi tìm thứ hạnh phúc nào? Hạnh phúc nơi Chúa hay hạnh phúc nơi của cải, tiền bạc, quyền lực? Xin cho chúng ta không đặt tin tưởng nơi của cải, tiền bạc, quyền lực và những thứ ở đời này nhưng hãy tìm kiếm hạnh phúc nơi Chúa, hạnh phúc của Tám mối phúc thật, đó là hạnh phúc của Nước Thiên Đàng.

Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn biết tìm kiếm hạnh phúc thật đó là hạnh phúc nơi Chúa, hạnh phúc trên Thiên Đàng. Amen.

 

8.     Hạnh phúc

Có thể một lần nào đó, chúng ta đã buột miệng khen là hạnh phúc những kẻ di chuyển trong những chiếc xe bóng loáng, những kẻ ở trong những ngôi biệt thự nguy nga, những người quyền cao chức trọng. Và quả là bất hạnh cho những người nghèo khổ, thiếu thốn mọi sự, những người cô thế bị trù dập.

Thế nhưng những lời tuyên bố của Chúa Giêsu hôm nay, hẳn phải làm chúng ta sửng sốt. Bởi vì những người được Người chúc phúc lại là những người nghèo khổ hiền lành, đau buồn, đói khát và bị bách hại. Phải chăng Chúa Giêsu chỉ là một kẻ mị dân hay là một người lập dị?

Thánh Phaolô trong bài đọc II đã suy nghĩ về thái độ của Chúa Giêsu và đã thốt lên: Những gì người đời cho là điên dại, hèn yếu lại chính là những gì Thiên Chúa dùng để thực hiện chương trình cứu rỗi của Ngài. Xa xưa trong quá khứ, tiên tri Sophonia đã loan báo về sự chở che của Thiên Chúa đối với người hiền lành và khiêm tốn. Những lời chúc phúc của Chúa Giêsu không thể được coi như những lời chúc phúc bình thường theo kiểu chúng ta cầu chúc cho nhau thoát khỏi cơn hoạn nạn. Lời cầu chúc có thể là thành tâm nhưng lại bất lực trong việc biến đổi hoàn cảnh của kẻ khác. Những lời chúc phúc của Chúa Giêsu là những lời tuyên bố, những lời hứa thực hiện, tỏ bày sự chọn lựa của Thiên Chúa, như lời tiên tri Isaia: Thiên Chúa đã xức dầu cho tôi và sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó.

Nghèo khó phải chăng là một thứ công nghiệp đáng được khen thưởng? Không phải vậy, có thể trong ngôn ngữ tôn giáo, chúng ta đã nói nhiều đến thưởng phạt, nhưng Chúa Giêsu lại muốn cho người ta hiểu rằng Thiên Chúa chọn người nghèo khổ vì chính hoàn cảnh thua thiệt đó đối với Chúa lại là hoàn cảnh thuận lợi để Ngài thi thố lòng yêu thương quảng đại của Ngài.

Điều Thiên Chúa muốn nhắm tới chính là mối liên hệ tình nghĩa giữa Ngài và con người. Ngài muốn cho chúng ta nhận ra rằng chính Ngài là nền tảng hạnh phúc đích thực và bền chắc của con người. Chúa Giêsu không phải chỉ dạy chúng ta một lối sống luân lý để rồi Thiên Chúa sẽ dựa vào việc người ta có sống hay không sống theo mẫu mực luân lý ấy mà thưởng hay phạt. Chúa Giêsu là Đấng trước hết thực hiện chương trình cứu chuộc, công trình giải phóng, đem lại hạnh phúc đích thực cho con người, và con người được mời gọi sống xứng đáng ơn huệ đã được ban cho.

Chúng ta hãy thực thi tinh thần của Chúa để nhờ đó chúng ta xứng đáng lãnh nhận niềm hạnh phúc Chúa đã hứa ban.

 

9.     Khó nghèo.

Phật Thích Ca đã xác quyết trong bài thuyết pháp đầu tiên tại Bênarét bằng câu: Vạn sự vô thường, vạn sự khổ. Nghĩa là mọi sự đổi thay không ngừng, nên mọi sự chỉ là khổ đau. Sinh, bệnh, lão, tử. Con người sinh ra để rồi ốm yếu, già lão và cuối cùng là chết chóc. Rõ thật đời là bể khổ mà mỗi người là một cánh bèo trôi dạt trên đó.

Năm trăm năm sau, Đức Kitô xuất hiện trên đất Palestin, đã tuyên bố trong bài giảng đầu tiên: Phúc cho ai có tâm hồn khó nghèo, vì Nước Trời là của họ.

Một người bị mang tiếng là bi quan yếm thế, còn người kia thì lại bị coi là không tưởng, lạc quan thái quá. Một bên coi đời là bể khổ, còn một bên lại nhìn thấy màu hồng trong cái thanh bạch trống trơn. Người ta đã tốn khá nhiều giấy mực và thời giờ cũng như sức lực để nghiên cứu, suy tư và bàn cãi về hai bài giảng đầu tiên của Đức Phật và của Chúa Giêsu. Đã có cả những luận án trình bày và so sánh về hai bài giảng đó. Tuy nhiên, chẳng mấy ai hiểu được chính xác nội dung ý nghĩa của hai bài giảng có tính cách tiên tri ấy. Vì thật ra, cả Đức Phật lẫn Chúa Giêsu, đều không chủ ý đề ra một lý thuyết về vấn đề hạnh phúc và đau khổ, mà chỉ chia sẻ cho anh em nhân loại của các Ngài chính kinh nghiệm sống của mình.

Kinh nghiệm của Đức Phật là kinh nghiệm của một người đã đạt tới chân nhu, vượt ra ngoài thế giới vô thường của những đam mê mù quáng, của sự phân chia đối kháng. Còn kinh nghiệm của Chúa Giêsu là kinh nghiệm của một người thấy được sự tồn tại trong cái mất và sự sống trong cái chết. Đức Phật chỉ nói lên cái lý do, cái nguyên nhân làm cho người ta khổ, nhưng Ngài không bao giờ lên án cuộc đời, cho nó chỉ là bể khổ. Chúa Giêsu cũng không bảo rằng muốn hạnh phúc thì phải là kẻ khố rách áo ôm. Do đó, thánh Matthêu đã có lý khi thêm ba chữ “có tâm hồn” vào trong câu nói của Chúa, để xác định cho rõ cái nghèo nào mới thực sự đem lại hạnh phúc cho con người. Trong cuộc đời, xưa cũng như nay, vào thời con người còn ăn lông ở lỗ cũng như trong thời ở khách sạn năm sao, vẫn luôn diễn ra những cảnh trái khoáy và ngược đời: nhiều người có đủ điều kiện để hạnh phúc mà thực tế lại đau khổ khôn lường. Còn những kẻ xem ra bần cùng tăm tối, lại tràn trề hạnh phúc.

Thực ra, ai cũng biết rằng nghèo không đương nhiên là khổ, đã đành rằng nghèo và khổ thường đi đôi với nhau. Trái lại, giàu có cũng không tất nhiên đem lại hạnh phúc. Vấn đề hạnh phúc chủ yếu ở tại cái Tâm. Bởi thế các bậc thánh nhân, bằng những ngôn ngữ khác nhau, nhưng hầu như đều nhất trí trong việc đề cao đời sống tâm linh. Đó chính là lý do tại sao Chúa Giêsu đề cao tâm hồn nghèo khó, hiền hậu, dám chấp nhận đau hkổ, yêu thích sự chính trực, thương xót anh em đồng loại, trong sạch và xây dựng hoà bình.

Thực vậy, những đức tính trên đây là những đức tính người nghèo của Thiên Chúa, theo truyền thống Kinh Thánh. Người nghèo của Thiên Chúa không phải là người có đời sống vật chất khó khăn túng quẫn, mà là kẻ luôn tin tưởng phó thác nơi Chúa, biết sống cho Ngài và cho anh em đồng loại. Lấy Chúa làm gia nghiệp và luôn sống trong tình liên đới với anh em. Thực thi điều răn quan trọng nhất là mến Chúa và yêu người.

Nói theo tư tưởng Đông phương, thì hạnh phúc chủ yếu ở chỗ thực hiện được sự hoà điệu giữa lòng mình với lòng trời, giữa lòng mình với lòng người, nghĩa là sống cho hợp lòng người và lấy lòng trăm họ làm lòng mình.

Trong tám mối phúc thật, Chúa Giêsu cho thấy hạnh phúc của chúng ta tuỳ thuộc vào mối tương quan ba chiều giữa chúng ta với Thiên Chúa, và giữa chúng ta với anh em đồng loại.

 

10. Nẻo về hạnh phúc – Lm. Ignatiô Trần Ngà

(Trích từ ‘Cùng Đọc Tin Mừng’)

Thi đàn Trung Quc t c chí kim ni lên mt tên tui ln, đó là nhà thơ Lý Bch, thi Thnh Đường (701 – 762). Ông t xem mình như tiên ông b lưu đày xung thế. Ông ưa sng kiếp lãng du, say mê v đẹp đất tri, v đẹp sông núi, trăng sao…

Theo truyn tng nhân gian, vào mt đêm trăng t, Lý Bch buông thuyn xuôi theo giòng sông Thái Trch lp lánh ánh trăng đêm. Ông đàn hát ngâm vnh và ung rượu thưởng thc trăng.

Càng v khuya, men rượu nng bc lên càng làm ngây ngt lòng thi sĩ. Sông nước, cnh vt lúc y càng huyn o nên thơ. Thi nhân cm thy mình như đang lc vào bng lai tiên cnh. Mnh trăng diu huyn in hình dưới làn nước lung linh như đang gi mi ông tao ng.

Trong hơi men chếnh choáng, ông nhoài mình qua mn thuyn, cúi tht sâu xung nước để ôm ly vng trăng mà ông say đắm lâu nay.

Than ôi! Ông đã b hình bt bóng và giòng sông oan nghit đã kết liu đời ông.

Trên cao, vng trăng tht như đang mm cười chế giu ông.

Câu chuyện của nhà thơ họ Lý cũng là câu chuyện thời sự của thế kỷ chúng ta. Nhân loại hôm nay đang kêu gào hạnh phúc, đang khao khát kiếm tìm hạnh phúc. Nhưng họ đâu biết rằng Thiên Chúa là Cội Nguồn của hạnh phúc.

Một vầng trăng thật in thành hàng tỷ bóng trăng trên các ao hồ khe suối.

Một Cội Nguồn Hạnh Phúc (là Thiên Chúa) toả xuống vô vàn mảnh vụn hạnh phúc trong các sự vật phù du ở đời.

Thay vì tìm về Cội Nguồn hạnh phúc là Thiên Chúa, người ta dại dột đâm đầu vào những chiếc bóng của hạnh phúc nơi những tạo vật chóng tàn.

Quả thế, người ta tưởng hạnh phúc nằm nơi bạc tiền, của cải, nơi lạc thú vật chất… rồi người ta đâm đầu vào đó như những những con thiêu thân lao vào lửa, như Lý Bạch nhào xuống nước tìm trăng.

Thiên Chúa là Cội Nguồn hạnh phúc, Thiên Chúa là nguồn mạch của hoan lạc và an bình, Thiên Chúa là Tình Yêu.

Tất cả những ai đang khao khát tình yêu, an bình, hạnh phúc là đang khao khát Chúa.

Nhưng tiếc thay, người ta đã bỏ hình bắt bóng. Người ta săn đuổi ảo ảnh của hạnh phúc mà không chịu tìm đến cội nguồn hạnh phúc là Chúa Cả trên trời.

Thời thanh xuân, Augustino là con người khao khát hạnh phúc cách mãnh liệt. Anh bôn ba kiếm tìm hạnh phúc trong văn chương và triết lý, trong dục vọng và lạc thú trần gian… nhưng Anh đã thất vọng ê chề và cảm thấy tâm hồn chất đầy sầu đau khắc khoải. Mãi đến năm ba mươi tuổi, Augustino mới cảm thấy tất cả những gì Anh đạt được chỉ là ảo ảnh của hạnh phúc, chẳng khác chi bóng trăng in hình đáy nước và chỉ có Thiên Chúa mới là ‘Vầng Trăng’ thật, là Hạnh Phúc thật mà thôi. Bấy giờ, với tâm hồn tràn đầy hoan lạc, Augustino thưa với Chúa: “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Ngài nên hồn con thổn thức khôn nguôi cho đến khi được an nghỉ trong Ngài”.

Thiên Chúa mới là nguồn Hạnh Phúc đích thật mà loài người luôn vươn tới, luôn khát khao. Chính Thiên Chúa đã đặt vào cõi lòng mỗi người chúng ta một khát vọng vô biên hướng về hạnh phúc mà không gì trên đời nầy có thể khoả lấp được và để lòng khao khát đó luôn thôi thúc chúng ta kiếm tìm, kiếm tìm không mệt mỏi cho đến khi gặp được Ngài là Hạnh Phúc đích thật.

Qua trích đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta tám nẻo đường đưa nhân loại về cội nguồn hạnh phúc mà ta quen gọi là tám mối phúc thật. Ai bước theo tám nẻo đường nầy chắc chắn sẽ đi đến Cội Nguồn Hạnh Phúc là Thiên Chúa, là Nước Trời, là Đất hứa:

* Tinh thần nghèo khó: biết nhận ra sự nghèo nàn của nội tâm mình, nhận biết rằng mình không là gì cả, tất cả những gì ta có là của Chúa ban…

* Cư xử hiền lành, biết nhường biết nhịn và mềm mỏng với mọi người…

* Chấp nhận sầu khổ hơn là gây khổ đau cho người khác…

* Khao khát trở nên người công chính,

* Đầy lòng xót thương, đối xử nhân ái với mọi người…

* Tâm hồn trong sạch, không chất chứa điều tà, điều gian ác, điều bất công…

* Chung tay xây dựng hoà bình, sống hoà thuận với mọi người cũng như làm cho mọi người hoà thuận với nhau…

* Sẵn lòng chịu bách hại vì sống công chính thanh liêm…

Nẻo về Hạnh Phúc đã rộng mở.

Bí quyết vào Nước Trời đã được giải bày.

Vấn đề còn lại là chúng ta hôm nay có đủ khôn ngoan và bản lãnh để chọn cho mình con đường mà Chúa đã đề nghị với chúng ta hay không.

 

11. Hạnh phúc khi trao ban – Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền

Khi nhìn về kiếp nhân sinh, với những thăng trầm nổi trôi của đời người, đầy những đau khổ, bất hạnh lầm than, đại văn hào Nguyễn Du đã nói rằng:

“Trăm năm trong cõi người ta

Ch tài ch mnh khéo là ghét nhau

Tri qua mt cuc b dâu

Nhng điu trông thy mà đau đớn lòng”

Có người còn bi quan bo rng:

Đời vui sao chng thy cười –

Sinh ra chng cười li khóc oe oe”.

Phần nhiều trong văn học, thơ ca hay kịch nghệ, người ta đã thành công khi khai thác chủ đề bất hạnh của đời người: cái đói, cái nghèo, cái khổ đau của bệnh tật, cái khổ đau của bất công và áp bức đã gây nên biết bao nỗi oan khiên, bất trắc cho thân phận con người. Những bất hạnh mà ta thường gặp không chỉ đổ xuống trên những thân phận nghèo đói, túng thiếu mà còn đổ xuống trên những kẻ có tiền, có của, có địa vị nhưng lại không tìm được hạnh phúc ở trong cuộc sống của mình. Dang vọng, tiền tài xem ra cũng không quý bằng hạnh phúc ở trong đời sống hằng ngày. Cuộc đời không có hạnh phúc là cuộc đời bất hạnh tựa như cây xanh thiếu lá nên trơ trụi và cằn khô. Vì “Cây xanh thiếu lá nó cũng trơ trơ – Biết mình thế này thà đừng sinh ra”. Vì sống là đi tìm hạnh phúc. Sống mà không có hạnh phúc thì cuộc đời như đã mất. Hạnh phúc là nỗi khao khát, là niềm ước mơ của mọi người. Từ những em bé bán vé số, đánh giầy, thu lượm ve chai cho đến những em sinh ra trong một gia đình giầu sang vẫn mang trong mình một khao khát được hạnh phúc. Từ những người quyền thế, giầu có lắm kẻ đón người đưa đến những con người xấu số bị bỏ rơi, khinh bỉ bên lề đường vẫn ao ước một khung trời hạnh phúc cho riêng mình.

Tựa như cuộc đời có nhiều nẻo đường khác nhau thì hạnh phúc cũng có nhiều cách khác nhau. Có hạnh phúc của người mẹ vừa sinh con, dù rằng bà phải chịu nhiều đau đớn thể xác. Có hạnh phúc của những người làm cha làm mẹ khi nhìn thấy những đứa con lớn khôn từng ngày, dù phải cơ cực lầm than, hay mưa nắng dãi dầu nơi nương rẫy, phố chợ. Có hạnh phúc của những con người đang quên mình vì tha nhân, vì bạn bè, dù rằng phải mang tiếng nợ đời “Ăn cơm nhà đi vác tù và hàng tổng”. Có hạnh phúc của những đôi vợ chồng trẻ đang yêu nhau nơi túp lều tranh, dù rằng phải chịu cảnh đói khổ cơ hàn nhưng vẫn tha thiết yêu nhau: “Tay bưng bát muối chấm gừng – Gừng cay muối mặn xin đừng xa nhau”. Thực vậy, có nhiều người vẫn chủ trương rằng: sống có ích cho tha nhân mới là cuộc đời đáng yêu, đáng sống. Có lẽ ở đời, chẳng ai thích đau khổ nhưng nhiều người vẫn chấp nhận bước vào khổ đau, vì đó chính là phương thế để đem lại hạnh phúc cho người mình yêu.

Hôm nay, Chúa Giêsu giới thiệu cho chúng ta một phương thức để đạt được hạnh phúc. Con đường hạnh phúc của người môn đệ Chúa không phải là con đường trải thảm rộng thênh thang mà là con đường hẹp của sự hy sinh, của quảng đại dấn thân vì lợi ích của tha nhân. Vì phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, có tấm lòng hiền hậu, dám chấp nhận khổ đau, yêu thích sự chính trực, thương xót đồng loại, giữ lòng trong sạch, và biết xây dựng hoà bình.

Như vậy, hạnh phúc của người môn đệ không hệ tại ở những cái mình có mà ở những cái mình dám từ bỏ vì Chúa và vì tha nhân. Vì Chúa mà ta từ bỏ mọi thứ tham lam, ích kỷ và bất chính để ta sống thanh thoát khỏi những đam mê của cải và lạc thú. Vì Chúa mà ta bỏ đi cái tôi ghen tương, nóng giận, để gìn giữ sự hoà thuận với những người mà chúng ta đang sống. Vì Chúa mà chúng ta dấn thân cho công lý được triển nở, cho hoa bác ái được toả hương, cho an bình được ngự trị. Vì Chúa mà chúng ta xả thân giúp người giúp đời mà không cần so đo tính toán thiệt hơn. Từ bỏ chính mình để ta hướng tới tha nhân. Có từ bỏ chính mình thì ta mới nghĩ tới thiện ích của tha nhân. Từ bỏ những quyền lợi, những nhu cầu của bản thân để chúng ta trao hiến những điều tốt đẹp nhất cho tha nhân.

Người ta bảo rằng ở bên Palestina có hai biển hồ là Biển Chết và biển hồ Galilêa, cả hai biển hồ này đều đón nhận nguồn nước từ sông Jordan. Thế nhưng, nơi Biển Chết thì không có một sự sống nào có thể tồn tại. Vì Biển chết đón nhận nhưng không trao ban, nó giữ lại cho riêng mình, nên nguồn nước trở thành mặn chát và độc hại. Ngược lại, tại biển hồ Galilêa cũng đón nhận nguồn nước từ sông Jordan rồi từ đó tràn qua các hồ nhỏ và sông lạch, nhờ vậy nước trong biển hồ này luôn sạch và mang lại sự sống cho cây cối, muôn thú và con người.

Đời người cũng tựa như biển hồ, nếu chỉ biết giữ riêng cho mình tất cả mọi sự nhận được từ Thiên Chúa. Sự sống trong họ rồi cũng chết dần chết mòn như nước trong lòng Biển chết. Thật hạnh phúc cho ai biết trao ban. Cuộc sống sẽ mãi lan toả và dồi dào sức sống như biển hồ Galilêa. Vì ai có thì được cho thêm, và vì chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời. Amen.

 

12. Mối phúc thật – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.

Khi nghe bài “Phúc Thật Tám Mối” trên đây, nhiều người ngạc nhiên sửng sốt. Những hạnh phúc Chúa hứa ban sao quá khác với những quan niệm về hạnh phúc mà ta thường có. Người ta ai cũng mong có nhiều của cải, làm ăn phát tài. Thế mà Chúa lại nói: “Phúc cho người nghèo”. Người ta ai cũng mong được khôn ngoan, được có uy quyền, được người khác nể phục. Thế mà Chúa lại nói: “Phúc cho người hiền lành”. Người ta ai cũng mong được an bình, sống thoải mái, vô lo. Thế mà Chúa lại nói: “Phúc cho các con khi các con bị bắt bớ”.

Chúng ta ngạc nhiên, không hiểu Lời Chúa, vì chúng ta có quan niệm sai lầm về hạnh phúc và về đạo.

1) V hnh phúc, chúng ta thường tưởng lầm rằng cứ có tiền bạc, có địa vị, có tình yêu là có hạnh phúc. Nhưng không phải như vậy. Không thiếu những người giàu tiền bạc, có địa vị cao, nhưng luôn bất hạnh.

Marilyn Monroe, nữ minh tinh thần thoại của thế giới phim ảnh là người có sắc đẹp mê hồn, được mọi người tôn thờ, và chắc chắn không thiếu tiền bạc. Thế mà nàng phải sống cuộc đời cô đơn buồn thảm. Sau cùng phải tự kết liễu đời mình trong buồn tủi, lo âu. Giờ nhắm mắt không có một người yêu bên cạnh.

Ngày nay xuất hiện nhiều “Tây ba lô”, những người nước ngoài ăn mặc thô sơ, vai đeo ba lô, đi gặp gì cũng ăn, ngủ bờ ngủ bụi. Tại sao họ không chọn ăn mặc chải chuốt, ngủ nghỉ trên chăn êm nệm ấm trong những khách sạn sang trọng? Thưa vì họ thích đơn sơ, thích khổ cực, thích phấn đấu, thích sống với thiên nhiên. Đó là hạnh phúc của họ.

Tiền bạc, tiện nghi, danh vọng, địa vị, tình yêu chắc chắn làm cho đời sống dễ chịu hơn. Nhưng vẫn chưa phải là hạnh phúc đích thực.

2) V đạo, chúng ta lầm tưởng rằng điều cốt yếu của đạo là giáo lý. Thưa không phải như thế. Đi đạo không phải là đi theo một giáo lý. Đi đạo là đi theo mt người. Điều cốt yếu của đạo là gặp được Chúa. Giáo lý chỉ là phương tiện giúp ta gặp được Chúa. Chúa mới là đích của đời ta. Chúa chính là hạnh phúc đích thực. Gặp được Chúa rồi, linh hồn ta sẽ toại nguyện, không còn mơ ước điều gì khác.

Thánh Augustinô khi còn tuổi trẻ đã chạy theo dục vọng, đi tìm lạc thú trong những buổi ăn chơi trác táng, những cuộc tình đắm mê. Ngài đã bỏ đạo, đi theo bè rối, nhưng chẳng thấy mãn nguyện. Một hôm nghe thánh Ambrôsiô giảng, Ngài đã được ơn thống hối ăn năn. Ngài trở về với Chúa, cảm nghiệm được tình yêu của Chúa rồi, ngài đã thốt lên một lời bất hủ: “Lạy Chúa, Chúa dựng nên con cho Chúa, nên lòng con mãi khắc khoải băn khoăn, cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa”.

Hiểu như thế rồi ta sẽ thấy Tám Mối Phúc Thật không có gì bí ẩn. Đó chính là tám nét vẽ nên chân dung Chúa Giêsu.

Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa vô cùng giàu sang đã tự nguyện sống cuộc sống của một người nghèo. Sinh ra không nhà. Sống không nhà. Chết cũng không nhà.

Chúa Giêsu đầy quyền năng. Người đã chế ngự được sóng gió, xua đuổi ma quỷ, lại sống rất hiền lành khiêm nhường. Bị kết án oan ức, bị hành hạ, bị sỉ nhục, bị giết chết, Người vẫn im lặng chấp nhận.

Chúa Giêsu có một trái tim xót thương, sẵn sàng tha thứ cho kẻ tội lỗi, sẵn sàng giúp đỡ người hoạn nạn, cứu chữa người tật nguyền.

Chúa Giêsu đem đến cho ta niềm bình an, hoà giải ta với Thiên Chúa và với nhau.

Chúa Giêsu đã bị bắt bớ, giết chết vì rao giảng Tin Mừng.

Tám mối phúc chính là con đường Chúa đã đi qua. Là hình ảnh trung thực của Chúa Giêsu. Đi vào con đường ấy, ta chắc chắn gặp được Người. Sống theo con đường ấy, ta trở nên giống như Người. Hoà tan mình vào con đường ấy, ta sẽ trở nên một với Người. Khi ta từ bỏ hoàn toàn ý riêng, để Người hoàn toàn chiếm đoạt, ta sẽ đạt tới hạnh phúc, hạnh phúc đích thực, hạnh phúc viên mãn, hạnh phúc vĩnh cửu.

Ly Chúa Giêsu, xin hướng dn con theo đường li ca Chúa. Amen.

KIM ĐIM ĐỜI SNG

1) Đối với bạn, hạnh phúc là gì?

2) Có bao giờ bạn cảm được niềm vui khi sống trong những mối phúc mà Chúa Giêsu loan báo chưa? Nếu có, xin chia sẻ với anh chị em.

3) Những đau khổ của bạn thường do những nguyên nhân nào?

 

13. Sống cuộc đời thành tựu.

(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)

Danh từ “hạnh phúc” (dùng trong Phúc Âm hôm nay) phải hiểu là sự thành công cuối cùng của con người khi nó được đặt trong tình nghĩa với Chúa. Nói thành công, không những là nói về bình diện những khát vọng tự nhiên của trí khôn và cõi lòng, song còn về bình diện những khả năng mới mẻ mà con người nhận được khi được nâng lên trạng thái siêu nhiên. Sống bất diệt là một ước vọng tự nhiên; thấy Thiên Chúa là một ân huệ siêu nhiên. Đừng quên cái viễn tượng hạnh phúc cuối cùng trong Chúa, khi đọc Bài Giảng Trên Núi, bài Tám Mối Phúc Thật. Nếu các ‘mối phúc’ bị giản lược vào bình diện tự nhiên (chiều ngang ta sẽ không thể hiểu nổi nữa).

Nếu hướng về Nước Tri, chúng trở thành tuyệt diệu. Trong các bản văn của Cựu Ước nói về Đấng Cứu Thế, những kẻ xấu số đều được ưu ái, vì nỗi nghèo khổ và hèn mọn của họ khiến họ cởi mở đón nhận Thiên Chúa. Trong Tám Mối Phúc Thật, Chúa Giêsu mô tả một thái độ nội tâm và một hoàn cảnh bên ngoài, tự nó đã làm cho Chúa thương tình, ta hãy ghi lại một vài nhận xét về tuyệt tác này.

1) Các ‘mối phúc’ bắt nguồn từ Thiên Chúa song chúng không bao hàm sự thiếu tin tưởng ở con người, mà là vượt khỏi con người. Có nghĩa là Chúa xem con người có khả năng sống tốt lành, công chính, trong sạch và an hòa. Người chỉ vẽ cho biết phải dùng phương tiện nào và đâu là chỗ chúng được hoàn thành. Phương tiện nằm ở điểm này là người môn đệ Đức Kitô sống trong mối liên lạc với Chúa mình. Đó là ý nghĩa của mấy tiếng ‘vì Ta’. Sự thành tựu được thực hiện đầy đủ ‘trên trời’. Vậy các mối phúc là một niềm hạnh phúc bắt đầu dưới trần gian trong nỗ lực đau đớn và hoàn thành trên trời trong sự chiếm hữu trọn vẹn. Ngay trên thế gian này trong mối liên lạc với Đức Kitô, con người phải khởi sự dùng các phương tiện để xây dựng niềm vui bất diệt của mình.

2) Trong các mối phúc, thì sứ điệp nào đang cần thiết nhất cho thời đại ta? Các mối phúc làm thành một toàn thể, không thể coi thường một mối nào mà không làm hại đến tất cả. Ngược lại, tha thiết với một mối là tha thiết với tất cả.

Có lẽ trước não trạng hiện đại, ta có quyền lưu tâm cách riêng đến lòng trong sạch. Đây không phải là sự ‘vắng mặt’ của tội lỗi mà thôi nhưng còn là một phẩm chất của trí tuệ, linh hồn và con tim. Đây nói đến sự ngay thẳng, sự thành thực ở trình độ trí tuệ. Trí khôn trong trắng thì không tự xây dựng nên một hệ thống tư tưởng nào để rồi đặt nó vào giữa mình và thực tại. Các hệ thống duy tâm đều không tinh ròng. Ví dụ thuyết duy khoa học, thuyết mác-xít.

Tấm lòng trong sạch chỉ sự trong sáng của cái nhìn nội tâm, cái nhìn làm cho ta khám phá ra Thiên Chúa trong mình và trong các tạo vật. Muốn thế, phải nỗ lực xây dựng sự trong trắng luân lý và nhất là phải có ý chí hiến thân mình cho Chúa trong sự đơn sơ của đức tin và tình yêu. Cõi lòng trong trắng gặp thấy khắp nơi và trong mọi sự chính Đấng mà tình yêu nó tìm kiếm. Ta nên biết nhìn Chúa khắp nơi, trong các biến cố và ngay trong một thế giới mà ta tuyên bố là hư hỏng, nhưng được Thiên Chúa cứu vớt.

 

14. Mối phúc thứ nhất.

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Người đàn ông chán đời đứng nhìn xuống giòng nước từ một chiếc cầu cao. Ông ta đốt một điếu thuốc cuối cùng trước khi kết liễu cuộc đời bất hạnh không còn lối thoát nào nữa. Ông ta đã làm đủ mọi cách để lấp đầy nỗi chán chường. Ông đã đi đây đi đó, đã tìm lạc thú trong những cuộc vui chơi, đã chạy đến với mọi thứ hơi men và khói thuốc. Nhưng nỗi chán chường càng thêm chất ngất.

Ông ta thử thời vận lần cuối bằng một cuộc hôn nhân. Nhưng không có người đàn bà nào ở với ông được vài tháng. Ông ta đòi hỏi quá nhiều, mà lại chẳng biết nghĩ đến ai cả. Ông ta nhận ra rằng ông đã chán chường và chẳng ai được hạnh phúc bên cạnh ông. Chỉ có giòng sông may ra mới đem lại cho ông sự thanh thoát.

Ông ta chưa kịp hút xong điếu thuốc thì thấy có người hành khất đi qua cầu. Con người rách rưới đó đứng nhìn ông và đưa tay xin giúp đỡ. Người đàn ông chán đời không ngần ngại rút cả ví tiền trao cho người hành khất và bảo:

– Thôi, ông cầm lấy cả đi. Tôi đâu cần tiền làm chi nữa.

Người hành khất cầm lấy chiếc ví, nhìn thẳng vào mắt kẻ chán đời và nói với giọng vừa ôn tồn vừa nghiêm nghị:

– Thưa ông, tôi không cần một số tiền lớn như thế này. Tuy là một người đi xin ăn, nhưng tôi không phải là kẻ hèn nhát. Tôi cũng không muốn nhận tiền của một kẻ hèn nhát. Ông hãy giữ ví tiền mà đem qua thế giới bên kia với ông.

Nói xong, người hành khất ném cái ví xuống giòng nước rồi lặng lẽ bỏ đi, để mặc kẻ chán đời với nỗi đắng cay chua xót đang gặm nhấm cõi lòng.

Đã hút xong điếu thuốc, nhưng kẻ chán đời vẫn chưa muốn kết liễu đời mình. Ông ta nhìn theo người hành khất đang từ từ mất dạng. Tự nhiên, ông ta không muốn chết nữa, mà chỉ muốn nhặt ví tiền trao tặng lại cho người hành khất. Chưa một lần trong đời, ông ta biết trao tặng cho ai bất cứ điều gì. Giờ phút này, ông ta muốn mở rộng tâm hồn, giang rộng đôi tay để trao tặng và muốn tiếp tục sống.

Anh chị em thân mến,

Không gì buồn chán cho cho bằng một cuộc đời không định hướng. Không gì bất hạnh cho bằng một tâm hồn ích kỷ, chỉ biết lo lắng tích góp cho riêng mình. Niềm vui sống chỉ có được khi ta hướng đời mình tới một cùng đích cao cả: Nước Trời hay Thiên Chúa.

Chúa Giêsu đến để đem lại cho con người hạnh phúc và hạnh phúc ngay ở trên đời này. Dĩ nhiên, hạnh phúc không có nghĩa là không có đau khổ. Cho dẫu có đau khổ, nhưng cuộc sống vẫn có ý nghĩa và đáng sống nhờ niềm tin của con người vào tình yêu Thiên Chúa. Hơn ai hết, Chúa Giêsu đã trải qua rất nhiều đau khổ. Ngài bị chống đố, bị khước từ, và cuối cùng bị treo trên thập giá. Thế nhưng, Ngài hẳn là một con người hạnh phúc thực sự mới có thể tuyên bố: “Phúc cho ai có tâm hồn nghèo khó… Phúc cho những ai đau khổ, bị ngược đãi…”.

Trong cuộc đời, xưa cũng như nay, vào thời con người ăn lông ở lỗ, cũng như trong thời khách sạn năm sao, vẫn luôn luôn diễn ra những cảnh trái khoáy: nhiều người có đủ mọi điều kiện để hạnh phúc, mà thực tế lại đau khổ khôn lường, còn những kẻ xem ra bần cùng tối tăm, lại tràn trề hạnh phúc.

Thật ra ai cũng biết rằng nghèo khó không đương nhiên là khổ. Đã đành rằng nghèo và khổ thường đi đôi với nhau. Trái lại, giàu có cũng không tất nhiên đem lại hạnh phúc cho con người. Vấn đề hạnh phúc chủ yếu ở cái tâm, ở tâm hồn. Bởi vậy, mối phúc thứ nhất, theo Thánh Matthêu, bao gồm các mối phúc khác là “Phúc cho ai có tâm hồn nghèo khó”. Các bậc thánh hiền, bằng những ngôn ngữ khác nhau, nhưng hầu như đều luôn nhất trí trong việc đề cao đời sống tâm linh. Chính đó là lý do tại sao Chúa Giêsu đề cao tâm hồn nghèo khó, hiền lành, dám chấp nhận khổ đau, yêu thích sực chính trực, thương xót người đồng loại, trong sạch và biết xây dựng hoà bình. Thật ra tất cả những đức tính đó là đức tính của “người nghèo của Thiên Chúa” (Giavê), của một “Anawim” theo truyền thống Kinh Thánh. “Người nghèo của Thiên Chúa” (Giavê) không phải là người có đời sống vật chất khó khăn túng quẫn, mà là kẻ trước hết hoàn toàn tin tưởng phó thác cậy trông nơi Chúa, lấy Chúa làm gia nghiệp, và luôn luôn sống trong tình liên đới với anh em đồng loại, thực thi điều răn trọng nhất là mến Chúa yêu người.

Như thế, Chúa Giêsu xác nhận “Người nghèo của Thiên Chúa” (Giavê) như ngôn sứ Sôphônia rao giảng (Bđ. 1) mới thật là người có phúc, là người may mắn, vì chính (Giavê) Thiên Chúa sẽ là hạnh phúc của họ. Nói chung, tám mối phúc thật xét theo nội dung cũng chỉ là mối phúc duy nhất: “Phúc cho những người sống tinh thần nghèo khó”.

Thưa anh chị em,

Ai trong chúng ta cũng khao khát tiền của, danh vọng, quyền thế. Chúng ta chạy theo những thứ ấy như một chiếc bóng, vì chúng không bao giờ thoả mãn được nỗi khao khát hạnh phúc vô biên trong tâm hồn chúng ta. Chúa Giêsu đến cho chúng ta biết ai là kẻ hạnh phúc đích thực trên trần gian. Đó không phải là những người giàu sang, tỷ phủ, siêu sao nổi tiếng, những nhà lãnh tụ chinh phục thế giới, những đại thiên tài… Nhưng là các kẻ nghèo khó, khiêm nhu, chính trực, nhân ái, xây dựng hoà bình và chịu bách hại vì đức tin. Tiêu chuẩn của người đời. Nói cho cùng, tám mối phúc thật đều quy về một mối: Phúc cho ai sống như Chúa Giêsu. Chính Chúa Giêsu là người trước tiên đã sống tám mối phúc này trong cuộc đời của Ngài: chẳng ai từ bỏ bản thân bằng Ngài, hiểu rõ nỗi khốn cùng của loài người, rộng lòng thương xót, thực thi thánh ý Thiên Chúa, ngay thẳng và đơn sơ, xây dựng hoà bình và cam chịu bách hại cho bằng Ngài. Vì thế, Ngài có thể nói vào lúc cuối đời: “Lạy Cha, chớ gì niềm vui của con được tràn đầy nơi chúng, để niềm vui của chúng nên trọn vẹn” (Ga 17,13). Và kết thúc bài giảng tám mối phúc, Ngài nói: “Anh em hãy hân hoan vui mừng, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời rất lớn lao”.

Vậy, anh chị em thân mến,

Ngay từ cuộc sống này, người tín hữu chúng ta phải tự nhận mình là những người hạnh phúc nhất. Mặc dù đang phải vất vả vì chén cơm manh áo từng ngày, đang cố gắng để tha thức cho những người bách hại mình, chúng ta hãy vui sướng để nhận ra mình là người có phúc, chúng ta hãy vui mừng, vì chúng ta đang đi lại từng bước của Chúa Giêsu Kitô. Và như thế thì chắc chắn “Nước Trời sẽ thuộc về chúng ta”.

 

15. Hạnh Phúc là Tình Yêu và là Sự Sống

(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)

Là con người, ai cũng mong muốn hạnh phúc và nỗ lực đi tìm hạnh phúc. Hạnh phúc là khát vọng ngàn đời của mỗi người. Khi con người chiều theo cơn cám dỗ của loài rắn, đó chính là lúc hạt mầm hạnh phúc không còn đủ “thiên thời địa lợi” để đơm hoa kết trái. Bất hạnh và gian dối theo về, ùa vào cuộc đời, chảy xuôi dòng lịch sử. Con người bắt đầu dệt những ước mơ, chắt chiu từng kỷ niệm, hồi tưởng về quá khứ, một quá khứ in đầy dấu chân hạnh phúc. Vậy hạnh phúc là gì giữa đa đoan và trắc trở, giữa bền vững và mong manh, giữa ích kỷ và bao dung?

  1. Quan nim v hnh phúc.

Có người cho rằng hạnh phúc là có thật nhiều tiền của, nhiều vàng bạc, lúa thóc đầy kho; hạnh phúc là quyền lực, địa vị danh vọng. Có người nghĩ hạnh phúc là có nhà cao cửa rộng, vợ đẹp con thơ, ruộng vườn thẳng cánh cò bay. Có người lại quan niệm hạnh phúc là sức khoẻ, là sự bình an thư thái của tâm hồn; hạnh phúc là sự hoà hợp giữa thể xác và tâm hồn, giữa cá nhân và cộng đồng xã hội, giữa cái tôi và vũ trụ bao la.

Theo truyền thống Ấn Giáo, hạnh phúc là Sukha, đó là trạng thái giống như một bánh xe mà trong đó mọi sự đều ăn khớp với nhau: vành xe, ổ trục và các đũa xe đều tốt và nằm đúng vị trí, hoà hợp với các thành phần khác do đó mà bánh xe chạy trơn tru. Còn đau khổ là Dukha, đó là tình trạng một bánh xe trục trặc vì có những thành phần hư hỏng hay không ăn khớp với những thành phần khác.

Tần Thuỷ Hoàng cho xây vạn lý trường thành, sai người đi tìm thuốc trường sinh bất tử để mong thoả ước mơ được hạnh phúc, được sống bất tử. Với Nhà văn Philippe Delerm, hạnh phúc là điều thật đơn giản, là tổng cộng các niềm vui nhỏ gộp lại. Năm phút nằm dài trên bãi cỏ xanh nhìn mây trời lãng đãng trôi, hớp ngụm bia ngon, thưởng thức một bản nhạc hay…đều có thể làm hưng phấn, tạo được niềm vui hạnh phúc. Kim Thánh Thán, nhà phê bình Trung Hoa đã từng có 33 phút vui tinh thần mà ông cho đó là phút giây thực sung sướng trong đời. Thú vui đó là thưởng thức thiên nhiên, dưới ánh trăng non, tay bầu rượu túi thơ, cùng bạn hữu trao đổi kinh sử văn thơ, cùng uống trà để quên đi sự huyên náo của phồn hoa, lòng thấy thanh thản (x. Quan niệm về hạnh phúc, Nội san chia sẻ, số 23).

Theo Đức Cha Phaolô Bùi Văn Đọc: Hạnh phúc là niềm vui, khi người ta vui thì hạnh phúc, khi người ta hạnh phúc thì người ta vui. Rất đơn sơ, rất dễ hiểu. Niềm vui là hoa trái của Chúa Thánh Thần. Hạnh phúc là niềm vui của mỗi người và mọi người trong gia đình chung sống với nhau. Những niềm vui làm thành cuộc đời. Niềm vui làm cho mỗi tâm hồn trở nên ấm cúng. Niềm vui chỉ thực sự có khi có tình yêu. Khi không có tình yêu thì không có niềm vui thực sự. Và đặc biệt khi có tình yêu không ngừng được tình yêu của Thiên Chúa tiếp sức thì con ngươì ta lúc nào cũng có thể rạng rỡ tươi cười, mặc dù có khó khăn mặc dù có đau khổ, gương mặt luôn biểu lộ hạnh phúc bởi vì lúc nào trái tim cũng dào dạt yêu thương. (x.Bài giảng tại Nhà thờ Hạnh Thông Tây, Lễ Thánh Gia, 125 gia đình mừng kỷ niệm hôn phối, mp3, http://tgpsaigon.org).

Đối với nhạc sĩ Trần Tiến: “Hạnh phúc quá đơn sơ, đời tôi đâu có ngờ” (Lời bài ca: Mặt trời bé con). Hạnh phúc quá đơn sơ. Chỉ có con người phức tạp hóa hạnh phúc khi mơ tưởng đứng vào hàng ngũ những kẻ giàu sang phú qúy và danh giá nhất. Cuộc chạy đua tranh dành tiền tài, danh lợi, lạc thú làm người ta bất hạnh. Tham sân si chẳng bao giờ để người ta có được một giây phút hạnh phúc thật sự.

Có muôn lối nhìn về hạnh phúc tuỳ theo quan niệm mỗi người.

  1. Đi tìm v hnh phúc.

Hạnh phúc không như bông hoa có thể dễ dàng hái được ở bên đường, không giống như chiếc áo, chiếc xe đạp hay cái nhà có thể vẽ ra thành hình hài màu sắc có thể mua bán. Hạnh phúc là điều cảm thấy được trong tâm hồn, nó thuộc chiều sâu cõi lòng tuỳ thuộc thái độ sống đối với cuộc đời. Con người phải ra công chăm sóc vun trồng thì cây hạnh phúc mới đơm hoa kết trái.

Hạnh phúc chính là khát khao được sống, được hiện diện, được yêu thương. Đi tìm hạnh phúc cũng là đi tìm sự sống. Sống là tồn tại, có tồn tại mới có yêu thương, có tương quan, có sinh trưởng. Đi tìm hạnh phúc cũng như đi tìm tình yêu. Khi người ta yêu nhau, mọi sự đều trở nên nhẹ nhàng, tốt đẹp: “yêu nhau yêu cả đường đi; yêu nhau trăm sự chẳng nề, một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng; yêu nhau mấy núi cũng trèo mấy sông cũng lội mấy đèo cũng qua”. Hạnh phúc là tình yêu. Tình yêu nối dài những ước mơ, ước mơ thường hướng con người về hạnh phúc.

Hạnh phúc chính là sự sống và là tình yêu. Tình yêu và sự sống như đôi cánh đưa con người bay vào khung trời hạnh phúc.

  1. Tám mi phúc tht.

Đức Phật Thích Ca mở đầu bài thuyết pháp đầu tiên tại Bênarêch bằng câu: “Vạn sự vô thường vạn sự thường”, nghĩa là mọi sự thay đổi không ngừng nên mọi sự chỉ là khổ. Sinh lão bệnh tử, con người sinh ra để rồi già yếu, bệnh tật và cuối cùng là phải chết. Đời là bể khổ, muốn có hạnh phúc, ra khỏi bể khổ, cần diệt lòng tham sân si. Khổ diệt lòng tham muốn mới thoát khỏi bến mê, khỏi u minh chốn hồng trần.

Đức Kitô trên “Núi Bát Phúc” đã thuyết giảng điệp ca hạnh phúc “Tám mối phúc thật”: Phúc cho ai… (Mt 5, 1-12).

Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó vì Nước Trời là của họ. Đức Phật coi đời là bể khổ. Đức Giêsu nhìn thấy màu hồng trong cái thanh bạch của tâm hồn nghèo khó .

Lm Thiện Cẩm đã nhận định rằng: Người ta đã tốn khá nhiều giấy mực và thời gian, sức lực để nghiên cứu suy tư bàn cãi về hai bài giảng đầu tiên của Đức Phật và của Đức Giêsu. Tuy nhiên, có lẽ chẳng mấy ai hiểu chính xác nội dung ý nghĩa hai bài giảng có tính cách ngôn sứ ấy. Vì thực ra cả Đức Phật và Đức Giêsu đều không chú ý đề ra một lý thuyết về vấn đề hạnh phúc và đau khổ mà chỉ chia sẻ cho anh em nhân loại chính kinh nghiệm sống của mình. Kinh nghiệm của Đức phật là kinh nghiệm của một người đã đạt tới chân như, vượt ra ngoài thế giới vô thường của những đam mê mù quáng, của sự phân chia đối kháng. Còn kinh nghiệm của Đức Giêsu là kinh nghiệm của một người thấy được cái tồn tại trong cái mất mát, thấy được sự sống trong cái chết.

Điệp ca trên núi của Chúa Giêsu đã trở thành Hiến Chương Nước Trời: Phúc cho ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ. Phúc cho ai hiền lành. Phúc cho ai… điệp ca vang vọng mãi ở trên núi được nhắc đi nhắc lại nhiều lần cho các môn đệ và cho nhân loại qua muôn thế hệ.

Tất cả Tám Mối Phúc đều có hai vế: vế thứ nhất là nhân, vế thứ hai là quả;vế thứ nhất là gieo, vế thứ hai là gặt; vế thứ nhất là mình vì người khác, vế thứ hai là người khác vì mình;vế thứ nhất là đau khổ, vế thứ hai là hạnh phúc. Các mệnh đề trong vế một phải hiểu ngầm là vì Chúa, vì tha nhân, nghèo vì tha nhân, hiền lành đau khổ vì tha nhân. Nếu không do tự nguyện vì Chúa, vì tha nhân thì sự nghèo, sự hiền lành, sự đau khổ, bách hại ta phải chịu đều là đau khổ chứ không phải là phúc đức. Chẳng hạn, mối phúc thứ nhất là nghèo vì người khác, sống nghèo cho người khác thì mới là phúc thật, còn sống nghèo để dành dụm tiền của ngày càng nhiều thì đó là trọc phú, là hà tiện chứ không phải là sống nghèo theo Tin mừng. Cái nghèo mà Đức Giêsu nói đến là nghèo vì yêu thương tha nhân. Nghèo vì cho đi vì muốn làm lợi ích cho người khác thì cái nghèo đó mới gọi là Đức Khó Nghèo. Vì thế giữa Đức Khó Nghèo và Đức Bác Ai có tương quan với nhau. Khó nghèo để bác ái, khó nghèo mà không bác ái thì trở thành hà tiện, hà tiện là một trong bảy mối tội đầu. Vì thế tâm hồn nghèo khó của Tin Mừng là tâm hồn sẵn sàng chấp nhận mất mát thời giờ, vật chất, sức lực, của cải, tài năng vì yêu thương tha nhân, vì mưu cầu hạnh phúc cho người khác. Một người có tinh thần phục vụ cao, dám hy sinh cho người khác, chắc chắn người đó sẽ được mọi người quý trọng, yêu mến, được tín nhiệm, được giao những trọng trách. Một người như vậy thì Nước Trời trong lòng họ, tinh thần họ luôn bình an, hạnh phúc, tràn đầy niềm vui vì sống cho hạnh phúc của người khác.

Kinh nghiệm trong cuộc sống cho thấy, những người ích kỷ suốt ngày chỉ nghỉ tới mình, tới hạnh phúc hay nổi đau của mình đều là những người đau khổ nhất. Còn những người có tâm hồn vị tha, chỉ nghĩ đến người khác, đến hạnh phúc và đau khổ của người khác, không còn thời giờ để nghĩ đến mình thì những người ấy luôn luôn hạnh phúc thoải mái trong tâm hồn và thành công trong cuộc đời.

Người Kitô hữu chúng ta cần tập thói quen sống vì Chúa, vì tha nhân và thường xuyên tìm đủ mọi cách để người xung quanh mình được hạnh phúc. Sống như thế không những được hạnh phúc ở đời này mà còn đời sau nữa. Đường lên thiên đàng thì nhỏ và chật hẹp,vất vả hơn đường xuống hoả ngục đầy thênh thang bóng mát. Chọn lựa theo Chúa Giêsu là đón nhận cho đời mình chính nguồn hạnh phúc chân thật và sự sống phong phú dồi dào.

Đức Giêsu là Thiên Chúa làm người để giúp con người sống hạnh phúc. Sau khi sống lại, Người mở đường dẫn lối cho chúng ta đi về hạnh phúc viên mãn trong Thiên Chúa Tình Yêu và Sự Sống.Tin và yêu mến Chúa Giêsu là được sống hạnh phúc mỗi ngày trong niềm vui.

 

16. Sự khiêm tốn – Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Truyn k: Mt hôm, vào ngày l thánh Têrêxa, mt nhà Dòng kín m ca cho bà con thân thích vào thăm. Các tín hu xóm làng cũng li dng cơ hi để vào xem nếp sng ca các n tu chuyên hãm mình cu nguyn. Mt trong s nhng người hiếu k không th hiu được lý do ca cuc đời tu trì khc kh. Có ông nghĩ bng rng: Hn đây là nhng người nghèo kh không có đủ cơm ăn áo mc. Ch có hng người xu s mi có can đảm hiến thân sng khó khăn như vy. Ri ông lân la nói truyn vi mt ch n tu đang tui xuân thì. Ch vào mt tòa nhà đồ s nm phía bên kia nhà dòng, ông nói: Này ch, giá chđược mt tòa nhà giu sang như vy, vi nhng lc thú người ta đang vui hưởng trong nhà y, ch có th hy sinh để chôn mình vào bn bc tường nhà kín này được không? Ch n tu kia giơ tay vut chiếc lúp trên đầu, nhìn ra và tr li vi mt n cười đơn sơ chân thành: Thưa ông, đó chính là nhà ca tôi.

Của cải trần gian không là cùng đích của cuộc sống nhưng chỉ là phương tiện. Sự giầu có của cải chưa chắc đã mang lại sự hạnh phúc và niềm vui an lạc cho cuộc đời. Có một điều gì đó cao quí hơn gấp bội những danh vọng, tiền bạc và thú vui trần đời. Tiên tri Sôphônia đã mở cửa dẫn chúng ta vào con đường hạnh phúc: Hãy tìm Chúa, hỡi tất cả những người hiền lành trong nước, là những kẻ tuân giữ luật Chúa; hãy tìm công lý, hãy tìm sự khiêm nhường, nếu các ngươi muốn được che chở trong ngày thịnh nộ của Thiên Chúa (Soph 2,3). Tiên vàn hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và mọi sự Ngài sẽ ban cho. Tìm kiếm Chúa là nguồn sự khôn ngoan. Thiên Chúa là chủ tể của toàn thể vũ trụ bao la vô tận. Trong khi con người chỉ sở hữu một mảnh không gian nhỏ nhỏ và bị lệ thuộc hoàn toàn vào sự vận chuyển tự nhiên của không gian và thời gian. Thế mà có nhiều người dám tự đắc kiêu ngạo khoe khoang chối bỏ sự hiện hữu của Đấng Tạo Hóa.

Thiên Chúa tao dựng con người có xác hồn, có ý chí và tự do. Con người biết suy tưởng những sự cao siêu nhưng rất giới hạn. Càng suy, tâm trí con người càng chìm sâu vào biển cả mầu nhiệm cao siêu. Sự hiểu biết của tâm trí con người thật bé nhỏ và giới hạn trong mọi lãnh vực. Chỉ có những tâm hồn khiêm nhường biết nhận ra sự yếu đuối và mỏng dòn của mình mới có thể đào sâu ý nghĩa đích thực của sự sống. Sôphônia đã nhận biết giá trị của đức khiêm nhường. Thiên Chúa không ưa thích kẻ kiêu căng, Ngài lật đổ những người quyền thế: Ta sẽ để sống sót lại giữa ngươi, một dân tộc khiêm tốn và nghèo hèn, biết tin tưởng vào danh Chúa (Soph 3, 12). Sự khiêm tốn không phải là sự hèn nhát và yếu đuối, nhưng là một nhân đức. Khiêm tốn là một năng lực kỳ diệu thắng mình và thắng người. Kẻ khiêm nhu có thể đối diện được với tất cả mọi trạng huống của cuộc sống. Người biết sống khiêm hạ sẽ dễ dàng thuyết phục tâm tư của người đời.

Thiên Chúa đứng về bên những người nghèo khổ, cô đơn, khiêm hạ và chân thành. Đường lối của Chúa đi ngược lại với những tham vọng của con người. Chúa Giêsu xuống thế làm người đã chọn đi con đường nghéo khó và khiêm nhượng. Thiên Chúa cao cả hạ thân xuống cùng tận của sự khó nghèo và từ đó, Thiên Chúa đưa dẫn loài người lên chức bậc làm con Chúa. Thánh Phaolô trong thơ gởi cho giáo đoàn Corintô đã diễn tả: Những điều thế gian cho là điên dại, thì Thiên Chúa đã chọn để làm cho những người khôn ngoan phải xấu hổ; điều mà thế gian cho là yếu hèn, thì Thiên Chúa đã chọn để làm cho những gì là mạnh mẽ phải hổ ngươi (1Cor 1, 27). Sự khôn ngoan của thế gian là tìm thỏa mãn những ước mơ, đòi hỏi và tham vọng của tâm trí để đặt con người lên làm chủ mọi loài. Đã qua bao nhiêu thế hệ, sự hiểu biết về vũ trụ và sự sống cũng chỉ như giọt sương mai.

Thánh Phaolô mời gọi như lời đã chép rằng: Ai tự hào thì hãy tự hào trong Chúa (1Cor 1, 31). Tự hào trong Chúa có nghĩa là tin tưởng vào sự hiện hữu của Thiên Chúa. Qua mạc khải, chúng ta học biết lẽ sống và cùng đích của con người và vạn vật. Câu truyện về Kinh Thánh: Một vị tuyên úy trên bãi chiến trường đã đến gặp một người lính trẻ bị thương đang ẩn núp dưới hầm. Vị tuyên úy hỏi: Anh muốn tôi đọc vài đoạn trong cuốn sách Kinh Thánh này không? Người thương binh nói: Tôi đang qúa khát. Tốt hơn hãy cho tôi một chút nước. Vội vàng, vị tuyên úy mang cho anh chút nước. Anh thương binh nói: Cha có thể đặt cái gì đó dưới đầu của tôi không? Tuyên úy cởi áo choàng, cuộn lại và nhẹ nhàng đặt dưới đầu của anh ta như chiếc gối. Bây giờ, cha có thể phủ trùm thân tôi vì tôi đang lạnh run. Tuyên úy cởi cả áo ngoài và đắp cho anh ta để giữ ấm. Anh thương binh nhìn thẳng vào mắt vị tuyên úy và nói: Nếu có bất cứ điều gì mà cuốn sách đó đã thúc đẩy một người thi hành giúp người khác những điều mà cha đã làm cho tôi, vậy làm ơn đọc lời Kinh Thánh, bởi vì tôi mong muốn được nghe lời đó. Kinh Thánh là lời của sự khôn ngoan. Nghe, đọc Lời Chúa và đem ra thực hành thì như người xây nhà trên đá tảng vững chắc.

Bài giảng trên núi nói về Tám Mối Phúc Thật là một lời mời gọi lội ngược dòng. Những điều Chúa Giêsu giảng dạy qua tâm từ bi phản ánh một sự khiêm nhu thật sự. Chúa chúc phúc cho nhưng tâm hồn nghèo khó, hiền lành, đau buồn, đói khát điều công chính, thương xót người, lòng trong sạch, ăn ở thuận hòa và chịu sự bách hại vì lẽ công chính, họ sẽ được no hưởng niềm vui của Nước Trời. Tám Mối phúc thật là Kim Chỉ Nam sống đạo và là các nhân đức cao qúy cần thực hành. Đường dẫn vào Nước Trời có rất nhiều nẻo. Mỗi nẻo đường đều cần có đức khiêm nhượng làm căn bản. Trong sự phấn đấu để nên trọn lành, tâm hồn chúng ta cần có sự kiên tâm, nhịn nhục và hạ mình. Chịu mất mát thua thiệt để chiến thắng. Người ta thường nói: Thắng mình khó hơn thắng vạn quân.

Càng ở chức vụ cao, càng phải khiêm hạ phục vụ. Sự giầu có trong của cải, danh vọng và địa vị là dấu chỉ được chúc phúc. Người giầu có cần chia sẻ cho những người túng thiếu. Người giầu có của cải vật chất vẫn có thể sống tinh thần nghèo khó. Họ biết dùng của cải đời tạm này như phương tiện phục vụ. Tiền cho đi là đồng tiền có giá trị cả lượng lẫn phẩm. Chúa Giêsu phán dạy: Phúc cho ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước trời là của họ (Mt 5, 3). Người nghèo dễ có tâm tình khiêm nhượng hơn, vì họ không cậy dựa vào chính họ. Người nghèo là người thấp cổ bé miệng dễ bị đàn áp và bóc lột, nên họ cần được sự bao vệ chở che và giúp đỡ. Chúa Giêsu cũng đã trải nghiệm đời sống trong cảnh nghèo. Sống khó nghèo là một nhân đức. Một trong ba lời khấn quan trọng của các tu sĩ dòng là lời khấn sống khó nghèo. Chúng ta biết khi buông bỏ được sự tham lam tiền của và danh vọng, cuộc sống sẽ thanh thản hơn. Các tu sĩ không giữ tiền bạc làm của riêng, nhưng chia sẻ đời sống cộng đoàn để cùng nâng đỡ lẫn nhau.

Sống nhân đức khiêm nhượng cũng đòi hỏi sự từ bỏ ý riêng của mình. Hãm bớt cái ‘tôi’ kiêu căng, tham lam và độc tài. Khi biết bước xuống là chúng ta đang tiến lên một bước. Hạ mình xuống, chúng ta không đánh mất mình, nhưng là cơ hội để nhận diện chỗ đứng của mình rõ ràng hơn. Kinh nghiệm thực tế, chẳng khi nào chúng ta sống khiêm tốn cho đủ. Đôi khi chúng ta nhận định để tự an ủi rằng: Nhìn lên tôi chẳng bằng ai, nhưng nhìn xuống tôi cũng còn hơn nhiều người. Biết rằng mỗi người đều có cá tính riêng biệt. Chúng ta không thể so sánh hay xếp loại vị thế. Sự khiêm nhường không cần thứ bậc trong phục vụ, nếu làm được việc gì giúp ích cho đồng loại, chúng ta cố gắng sẵn sàng.

Ly Chúa, đôi khi chúng con mun đến để đựơc phc v thay vì phc v tha nhân. Chúng con mun ăn trên ngi trc và ra lnh điu khin hơn là b công sc phc v. Xin cho chúng con hc biết thái độ khiêm tn để phc v tt cho anh ch em.

 

17. Đi tìm hạnh phúc

Trong dịp đầu năm, chúng ta thường cầu chúc cho nhau 365 ngày hạnh phúc. Trong những bức thư, chúng ta thường nguyện ước cho nhau gặp nhiều may mắn, thế nhưng trái chín hạnh phúc vẫn ở ngoài tầm tay của chúng ta, vì cả chúng ta lẫn những người chung quanh không ai có đủ yêu thương và đủ quyền phép để thực hiện những điều mong ước. Bởi đó đau khổ vẫn chồng chất trong cuộc sống, đau khổ vì nghèo đói, vì bệnh tật, vì chết chóc. Đau khổ vì thất bại, vì chia ly, vì những cám dỗ đè nặng. Và hạnh phúc mãi mãi vẫn là một khát vọng chưa một lần nguôi ngoai.

Tôi còn nhớ trong cuốn giới luật yêu thương, Đức cha Bùi Tuần đã viết: Cuộc đời chúng ta là một chuyến đi, đi từ khát vọng này sang khát vọng khác. Chẳng lúc nào mà chúng ta không ước mơ, nhưng cũng chẳng có sự gì làm cho chúng ta được no thỏa. Trong mọi ước muốn to nhỏ, hình như chúng ta vẫn tìm hoài một hạnh phúc vô biên. Niềm hạnh phúc vô biên ấy là gì để rồi chúng ta lên đường tìm kiếm và đầu tư cuộc đời chúng ta vào đó?

Có người cho rng: hạnh phúc trong cuộc sống đó là sắc đẹp và vẻ quyến rũ, để rồi suốt ngày họ lo trau chuốt cho thân xác của họ. Nhưng sắc đẹp ấy tồn tại được bao lâu? Mười hay mười lăm năm là cùng, để rồi chúng ta cũng phải già nua với tuổi đời chồng chất.

Có người cho rng: Tiền bạc sẽ đem lại hạnh phúc. Nhưng thực sự có phải là như vậy hay không? Paul Getty là chủ một hãng dầu lớn nhất tại Anh Quốc. Tài sản của ông lên tới hàng tỷ mỹ kim. Tuy nhiên cũng vì thế mà hàng ngay ông nhận được cả trăm bức thư tống tiền và hăm dọa sẽ ám sát ông, để rồi ông đã phải sống trong cảnh cô đơn, như chính ông đã thú nhận: Tôi chưa bao giờ được hạnh phúc. Tôi là một kẻ bất hạnh nhất.

Có người cho rng: Địa vị và danh tiếng chính là mục đích của cuộc đời. Vậy thử hỏi những người đã có một thời vàng son, nắn giữ uy quyền tuyệt đối, như các vua chúa thời xưa, vậy bây giờ họ ở đâu? Hay thân xác họ cũng đã phải trở về với bụi đất và chìm vào quên lãng, như Nguyễn Du đã từng than thở:

– Bất tri tam bách dư niên hậu.

Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như.

– Biết rồi ba trăm năm sau,

Nào ai còn khóc một câu thương mình.

Và sau cùng, có người đi tìm hạnh phúc trong tình yêu, thế nhưng liệu họ có được thỏa lòng ước mơ hay lại như kinh nghiệm đã diễn tả: Yêu nhau trong ba ngày, ghét nhau trong ba tháng và chịu đựng nhau suốt ba mươi ba năm…Hạnh phúc của tình yêu thì chỉ thoáng qua, những đau khổ của nó lại kéo dài trong suốt cả cuộc đời.

Vậy đối với chúng ta, niềm hạnh phúc đích thực là gì? Tôi xin thưa niềm hạnh phúc đích thực của chúng ta là chính Thiên Chúa và được sống với Ngài mãi mãi trên quê trời, vì chỉ mình Ngài mới có đủ tình yêu và khả năng thực hiện mọi điều chúng ta mơ ước mà thôi. Đối với chúng ta, chỉ có một sự cần thiết, đó là tìm kiếm Chúa và cứu rồi linh hồn, như lời Chúa đã phán: Được lời lãi cả thế gian, mà mất linh hồn thì nào có ích lợi chi.

Bởi đó đời sống chúng ta phải là một cuộc phiêu lưu đi tìm kiếm Chúa, phải là một hànhtrình đi về với Chúa. Đã là một cuộc hành trình thì phải có một hướng đi, một con đường nhất định. Con đường ấy chính là cái đạo mà Chúa Giêsu đã truyền dạy cho chúng ta, bởi vì đạo chính là đường. Cái đạo ấy, con đường ấy được gồm tóm trong giới luật yêu thương, và cụ thể hơn được diễn tả qua tám mối phúc thật mà chúng ta vừa nghe.

Chúa Giêsu đã thổi vào tâm hồn chúng ta một luồng gió mới, đã gieo vào cõi lòng chúng ta một tinh thần mới, hoàn toàn khác biệt với tinh thần thế gian. Phúc thật tám mối là như bản hiến chương Nước Trời, gồm tóm những điều căn bản và cần thiết nhất, phải được coi như là những tiêu chuẩn hướng dẫn cho đời sống chúng ta.

Hãy thực thi tinh thần của bài giảng trên núi về tám mối phúc thật, để chúng ta tìm thấy cho mình niềm hạnh phúc đích thực ở đời này và nhất là ở đời sau.

 

18. Hạnh Phúc ơi, Mi là gì?

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

Cái tựa đề bài viết có vẻ như là tựa đề một khúc ca, một bản tình ca. Hẳn nhiên không phải vô tình nhưng xin thú thực là có chủ ý. Kitô hữu chúng ta, nếu là người trưởng thành và được “xem là ngoan đạo” thì chắc chắn thuộc nằm lòng kinh “phúc thật tám mối”. Mẹ Giáo hội đã minh nhiên khẳng định rằng “tám mối phúc” chính là bản Hiến Chương Nước Trời”. Dưới một góc độ nào đó thì bản Hiến Chương cũng gần tương tự với bản Hiến Pháp của một quốc gia. Chúng ta dễ dàng đồng thuận với nhau về tầm quan trọng cũng như vị trí, vai trò tối thượng của bản Hiến Pháp trong việc định chế các luật lệ để điều hành các tổ chức, sinh hoạt của một đất nước. Vị trí, vai trò của bản Hiến Chương trong các tổ chức xã hội lớn bé cũng có tầm quan trọng không thể phủ nhận, cho dù trong thực tế, có thế lúc này, lúc kia, nơi này nơi nọ, việc tuân thủ không được chặt chẽ và nghiêm túc.

Một ngộ nhận thường thấy khi đề cập đến các mối phúc của Tin mừng đó là người ta dễ bị cám dỗ tìm cách giải thích, biện luận và minh chứng vì sao khó nghèo là có phúc, vì sao sầu khổ là có phúc… Trong khi đó hạnh phúc thật mà Chúa Kitô loan báo không ở cái vế đầu của câu nói mà ở vế sau. Để hiểu rõ điều này xin đan cử câu chuyện đã từng xảy ra về một ông lão nghèo hành nghề bán vé số kiếm kế sinh nhai bỗng nhiên thành tỉ phú. Một ngày kia, vé số bán không hết, ông lão mệt quá nên không đem số vé dư trả lại đại lý. Ai ngờ có trong số vé dư ấy có một cặp mười lại trúng giải độc đắc. Người ta bèn nói rằng ông lão bán vé số có phúc vì trúng số độc đắc bạc tỉ. Như thế cái được gọi là có phúc không phải ở vế “làm nghề bán vé số” hay ở vế “không trả lại số vé không bán được” mà ở nơi vế “trúng giải độc đắc bạc tỉ” kiểu như trên trời rơi xuống.

Vậy chúng ta cần khẳng định rằng hạnh phúc thật chính tình trạng được ở trong Nước Trời, được có Nước Trời làm gia nghiệp, được Thiên Chúa ủi an, thương xót, được nhìn thấy Thiên Chúa, được gọi là con Thiên Chúa, được Thiên Chúa ân thưởng trên trời, nghĩa là các vế thứ hai của các mối phúc. Các vế thứ nhất của các mối phúc không phải là những điều kiện để có hạnh phúc, nhưng chỉ là những tình trạng được ban phúc, những tình trạng đã đón nhận hạnh phúc được ban.

Để hiểu điều này chúng ta cần đối chiếu với Tin Mừng thánh Luca. Các nhà nghiên cứu Tin Mừng đồng thuận với nhau rằng thánh sử Luca tường thuật các dữ kiện liên quan đến các mối phúc thì sát thực tiển hơn so với Tin mừng thánh Matthêu. “Đức Giêsu ngước mắt lên nhìn các môn đệ và nói: ‘Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của anh em. Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói, vì Thiên Chúa sẽ cho anh em được no lòng…”(Lc 6,20-23).

Hạnh phúc thật là Nước Trời, là chính Thiên Chúa. Và Thiên Chúa đã đoái thương ban hạnh phúc ấy cho tất cả mọi người, cho cả những người mà dưới con mắt thế gian hay theo nếp nghĩ của con người là bất hạnh là kém cõi là ngu dại, là kém phận… Thực tế cho thấy khi Chúa Kitô đi rao giảng tin mừng, thì rất nhiều người vốn bị xem như là bé phận, hèn mọn đã biết mở rộng tâm hồn đón nhận ân phúc Người ban. Trái lại, có nhiều người mà thế gian cho là may mắn thì không nhận được ân phúc ấy, nói đúng hơn là họ đã chối từ hạnh phúc được ban. Thánh sử Luca sau khi tường thuật những lời chúc phúc của Chúa Kitô thì tường thật tiếp liền những lời cảnh báo về các mối họa với những người giàu có, những người đang được no nê, vui cười, đang được mọi người ca tụng (x.Lc 6,24-26).

Những hạng người này bị chúc dữ hay nói đúng hơn là cảnh báo về tại họa không phải vì họ giàu, đang được no nê hay vui cười…nhưng vì họ đã đặt hạnh phúc thật sai chỗ, sai đối tượng. Họ đã lầm tưởng rằng của cải, các hoàn cảnh thuận lợi, danh phận đời này là hạnh phúc thật. Chính vì thế họ đã khước từ Chúa Kitô, khước từ Nước Trời mà Thiên Chúa ban tặng.

Các mối phúc thật hay Bản Hiến Chương Nước Trời không chủ ý nói đến những điều kiện để có hạnh phúc nhưng là trình bày nội dung của hạnh phúc đích thật. Đó là Thiên Chúa, là Nước Trời mà Người ban tặng cho nhân loại. Hạnh phúc đích thật chính là quà tặng nhưng không của Thiên Chúa, một quà tặng vượt quá mọi khả năng chiếm hữu của con người. Con người chỉ có thể đón nhận ân phúc ấy bằng lòng tin. Thánh Tông đồ dân ngoại đã từng nhấn mạnh chân lý này trong thư gửi tín hữu giáo đoàn Galata và giáo đoàn Rôma (x.Gl 2,16.19-21; Rm 3,28-30).

Có thể nói rằng tám mối phúc như khó nghèo, sầu khổ, khát khao nên người công chính, biết xót thương người…là những cách thế biểu lộ niềm tin, những con đường sống đức tin. Và chúng ta cũng có thể nói rằng ngoài những con đường, những cách thế rõ nét ấy thì vẫn có đó muôn vàn con đường sống đức tin, muôn muôn vàn cách thế biểu lộ niềm tin. Có thể xem đây là sự giao thoa giữa tám mối phúc đã được kể. “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi !”(Lc23,42). Không biết người gian phi bị treo bên phải Chúa Giêsu năm nào đã đi con đường nào của bát phúc, nhưng anh ta đã biểu lộ niềm tin vào Chúa Giêsu. Và anh đã được trao ban hạnh phúc đích thực là Nước Trời ngay ngày hôm ấy (x.Lc 23,43).

Cũng như Bản Hiến Pháp của một quốc gia vừa có tính hướng dẫn, vừa có tính quy định những thể chế, tổ chức, luật lệ của quốc gia ấy, thì Bản Hiến Chương Nước Trời khi cho biết đâu là hạnh phúc thật và con đường để có hạnh phúc thật sẽ có tính hướng dẫn và quy định các tổ chức, sinh hoạt…của đoàn tín hữu Kitô không chỉ trong tư cách cá nhân mà cả trong tư cách là đoàn dân của Thiên Chúa. Mong sao mọi tổ chức sinh hoạt của Giáo hội, mọi nghi tiết Phụng vụ, mọi luật lệ được ban hành… biết lấy Bản Hiến Chương Nước trời làm tiêu chuẩn quy chiếu. Và ước gì được một lần trong đời chúng ta không chỉ cất tiếng hát mà còn thực sự cảm nhận và xác tín lời một bài thánh ca khá quen thuộc: “vì ngoài Chúa ra, đâu là hạnh phúc…?”

 

19. Nỗi khao khát

Bill Gates, nhà t phú tr tui người M, chuyên kinh doanh v máy đin toán, nhiu năm liên tiếp đạt danh hiu “người giàu nht thế gii”. Theo tp chí Forbes bình chn mi năm, tài sn cá nhân ca Gates hin đã lên đến 36,4 t USD (1997) và đang sinh sôi ny n rt nhanh. Mi ngày, ông ch công ty Microsoft này thu nhp 42,5 triu USD.

Nhiu người ao ước được giàu có và danh tiếng như ông vua phn mm máy tính này, thm chí ch xin được bng cái s l ca ông thì đã vô cùng hnh phúc. Bi vì “Có tin mua tiên cũng được!” Hay như thi nay người ta thường nói:

       “Đồng tin là Tiên là Pht

       Là sc bt ca tui tr,

       Là sc khe ca tui già,

       Là cái đà ca danh vng,

       Là cái lng che thân,

       Là cán cân công lý,

       Đồng tin là hết ý”.

Nhưng Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu lại tuyên bố: “Hạnh phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó” (Mt 5,3). Hơn nữa, Người còn cho là hạnh phúc những ai hiền lành, sầu khổ, bị bách hại…

Giáo Hội gọi đó là Hiến Chương Nước Trời, nghĩa là chỉ những ai sống và thực thi những điều ấy mới được làm công dân của Nước Trời.

Với người không có niềm tin thì đó là một điều hết sức nghịch lý. Nghèo khó, hiền lành, sầu khổ, bị bách hại… không thể mang lại hạnh phúc mà chỉ đem đến những bất hạnh thiệt thòi, khinh bỉ mà thôi.

Như vậy phải chăng Đức Giêsu ngăn cản nền văn minh tiến bộ của nhân loại đang vươn tới hùng cường, thịnh vượng sao? Phải chăng Người ủng hộ cho hành động bóc lột và đàn áp? Hoàn toàn trái lại. Người đã nói: “Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10). Vì thế, làm môn đệ Đức Giêsu là phải xua đuổi nghèo nàn và lạc hậu khỏi thế giới này, là phải đẩy lui đau khổ và bất công xa rời con người. Đó là những vị khách không mời mà đến, và chúng ta phải có nhiệm vụ tống khứ chúng ra khỏi mái nhà của nhân loại. Đây là mục tiêu giải quyết của Kitô giáo, và cũng là trách nhiệm của mỗi người tín hữu chúng ta.

Đức Hồng Y Tonini tuyên bố: “Giáo Hội trở nên nghèo bởi vì Giáo hội tràn đầy Thiên Chúa. Giáo Hội nghèo bởi vì Giáo Hội có nhiều thứ vĩ đại hơn”. Nếu Chúa đã nói: “Phúc cho những ai có tâm hồn nghèo khó”, “Phúc cho những ai hiền lành”, “Phúc cho những ai sầu khổ”, “Phúc cho những ai bị bách hại”, là bởi vì họ đã khiêm tốn nhận mình thiếu thốn, bất lực, nên đặt trọn niềm tin cậy và phó thác nơi Người.

Nếu Chúa đã dạy: “Phúc cho những ai có tâm hồn trong sạch” “Phúc cho những ai khao khát công chính, “Phúc cho những ai xây dựng hòa bình”, Phúc cho những ai xót thương người”, là bởi vì họ đã quyết tâm sống trọn vẹn cho Thiên Chúa và nhiệt tâm phục vụ anh em.

Tận thẳm sâu của tâm hồn, ai cũng có nỗi khao khát cháy bỏng được sống hạnh phúc, ai cũng muốn người khác đem lại phúc lộc cho mình. Nhưng hạnh phúc đích thực chỉ đến với những người biết đem lại hạnh phúc cho kẻ khác, và hết lòng quảng đại với tha nhân. Đức Giêsu đã dạy: “Cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20,35). Nhà truyền giáo Albert Schweiltzer quả quyết: “Người hạnh phúc nhất trong anh em là người đã tìm thấy con đường hiến thân phục vụ”.

Hạnh phúc đích thực không đo bằng của cải con người thu tích được, không tùy thuộc nơi những thành đạt mà họ có, cũng không đến từ danh vọng mà con người chiếm hữu, nhưng chính là do nơi họ biết hoàn toàn tín thác vào Chúa mà thôi. Sự giàu có đích thực là sự giàu có ở trái tim, không phải ở túi tiền.

 

20. Chín lần hạnh phúc

Người ta có thể làm cho lễ Các thánh trở nên lễ của hạnh phúc hay không? Dầu sao Tin Mừng ngày hôm nay cũng nói lên điều đó! Chín lần “hạnh phúc”. Và đầu tiên là: “Các ngươi hãy vui mừng hoan hỉ, phần thưởng của các ngươi sẽ lớn lao ở trên Trời”.

Đám mây đầu tiên trên ngày lễ này đó là thì tương lai “Các ngươi sẽ là…Các ngươi sẽ được… Các ngươi sẽ thấy…”. Chính với những thì tương lai kiểu này mà người ta đã giễu cợt những người bất hạnh. Người ta dễ dàng tìm thấy trên đó những bài thuyết giáo khó chịu và những bản văn hoang tưởng của Nã phá Luân!: Khi một người chết đói bên cạnh một người khác no đầy, không thể nào làm cho người đó chấp nhận sự khác biệt này nếu không có một người có uy tín nói với họ: Thiên Chúa muốn như thế, phải có người nghèo và người giàu trên thế gian này, nhưng sau đó và trong vĩnh cửu sự chia sẻ sẽ được thực hiện theo cách khác”.

Các mối phúc chính là hạnh phúc trong tương lai và những sự đảo ngược đầy ấn tượng, những người đầu tiên sẽ là những người cuối cùng. Nhưng không như Nã phá Luân nghĩ, theo nghĩa đó đơn giản là một sự phân phối lại và chỉ có trong tương lai mà thôi. Hạnh phúc được ban tặng ngay từ bây giờ cho tất cả mọi người dười hai hình thức một cuộc hành trình tiến về niềm vui hoàn toàn và một cuộc hành trình đã có hạnh phúc. Giá như mỗi năm họ làm cho lễ Các thánh trở nên một ngày suy niệm về sự hy vọng.

Chúng ta là những người của hy vọng, những người của Tin Mừng. Một ngày kia, tại Palextin, một người đã cất tiếng nói: “Nước Trời kia rồi! Nước Trời đây là ơn cứu độ Chúa ban cho tất cả mọi người. Từ đây bất cứ người nào cũng có thể hướng tới hạnh phúc được mô tả nơi trang cuối cùng của Thánh Kinh: “Tôi thấy trời mới và đất mới. Tôi nghe có tiếng nói: Kìa nhà tạm Chúa ở giữa nhân loại. Họ sẽ là dân tộc của Ngài và Ngài sẽ là Thiên Chúa ở giữa nhân loại. Thiên Chúa sẽ lau khô mọi giọt lệ, sẽ không còn chết nữa, hết tang chế, hết kêu than, đau đớn, vì những cái trước kia qua đi rồi” (Kh 21, 1-4).

Chính điều này mà chúng ta mừng vào lễ Các thánh: tất cả chúng ta được mời gọi đi vào trong thế giới mới của sự vui mừng lớn lao. Nhưng phải nói đi nói lại rằng ngay từ bây giờ chúng ta là những người của cái tương lai này. Sự liên tục giữa đất và trời không phải luôn luôn được nhận thức một cách rõ ràng. Chúng ta sẽ không nhận lãnh một phần bánh Trời được đo lường và trả giá bằng cuộc sống mà chúng ta đang sống, khó nhọc, lo âu và đau khổ. Chúng ta sẽ mãi mãi là khả năng của niềm vui mà chúng ta tìm kiếm nơi chúng ta trên thế gian này. Chúng ta sẽ là con người của niềm vui mà chúng ta đang tạo nên. Người ta không chinh phục nước trời mà là trở thành nước trời.

Với những mối phúc. Những mối phúc này là một tinh thần và là một hình ảnh. Tinh thần của Nước trời, bầu không khí và những tập tục của Nước trời. Còn hình ảnh là hình ảnh của vị sáng lập, vị vua mẫu mực: đó là Chúa Giêsu, Hgaì đã là người nghèo hèn, khiêm nhu, ôn hoà, trong trắng và bị bách hại. Khi nói “Phúc cho”, Ngài biết Ngài nói về điều gì, về sự trộn lẫn giữa hiện tại và tương lai. Điều này làm cho chúng ta hạnh phúc như Ngài đã từng hạnh phúc. Chúa Giêsu hạnh phúc vì đã là một con người. Điều kỳ lạ là người ta rất ít nói về điều này.

Chúng ta có thể ngay lập tức trở thành một “chân phước” khi chúng ta sống trong niềm hy vọng, nếu tôi dám nói như thế. Niềm hy vọng dặc biệt này được gọi là “vì Chúa” bởi vì nó nối kết chúng ta với Chúa trong khi đảm bảo rằng Chúa muốn cho chúng ta hoan hỉ và sẽ làm tất cả để cho chúng ta hạnh phúc: “Thầy nói cùng các con những điều này để các con được vui mừng và sự vui mừng đó được đầy đủ” (Ga 15,11). Cho nên trước hết các mối phúc này khẳng định với chúng ta rằng Chúa ở với chúng ta. Nhưng chúng cũng cho chúng ta biết những sở thích của Ngài và ở đây lọt vào một điêù phiền nhiễu: Thiên Chúa có thích sự đau khổ hay không? Tại sao Ngài ưa thích người nghèo, người khiêm hạ, người bị bách hại?

Tôi tin rằng câu trả lơì nằm ở phía tấm lòng của những kẻ đáng thương này. Thiên Chúa tìm kiếm những người con và đặc biệt là Ngài tìm ra họ trong các hoàn cảnh khó khăn đó. Đây không phải là lý thuyết mà là thực tế. Khi lặp đi lặp lại chín lần “Phúc thay”, Chúa Giêsu nói đến kinh nghiệm riêng của Ngài. Rất muốn làm vui lòng Cha Ngài, Chúa Giêsu đã kinh nghiệm rằng con người chỉ thực sự là con của Chúa khi ở trong một tình trạng nghèo khổ đáng thương nào đó.

Đến lượt chúng ta hãy thử kinh nghiệm về các mối phúc này. Chúng chỉ làm cho người ta mỉm cười hoặc nghiến răng nếu nhìn từ xa. Nhưng những người cố gắng thử nghiệm thì nhận thấy kinh nghiệm và nói lên kinh nghiệm đó: họ cảm thấy hạnh phúc… vì được hạnh phúc như Chúa Kitô.

 

21. Phúc cho người sống những mối phúc.

(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ của Charles E. Miller)

Tự nhiên ai cũng muốn hạnh phúc, nhưng hạnh phúc rất khó tìm thấy. Nó thường trượt khỏi tay chúng ta giống như bánh xà phòng ướt nơi phòng tắm. Tất cả chúng ta đều cố gắng để được hạnh phúc, nhưng chúng ta lại không luôn luôn đồng ý với những gì mà sự hạnh phúc có. Điều đó giống như những cảm hưởng khác nhau trong âm nhạc và thực phẩm vậy. Chúng ta khác nhau cho dù bây giờ chúng ta có phung phí tiền bạc vào những gì sẽ làm cho chúng ta được hạnh phúc, hoặc chúng ta sẽ để dành cho “những ngày mưa gió” trong tương lai.

Tất cả những gì mà người ta nghĩ là hạnh phúc thì Chúa Giêsu lại không nghĩ vậy, giáo huấn của Người hoàn toàn biệt lập về sự hạnh phúc là gì, làm thế nào và khi nào chúng ta đạt được hạnh phúc. Tất cả chúng ta đều đã nghe lời giáo huấn của Người nhưng có lẽ chúng ta hoàn toàn thất bại trong việc nắm bắt cho dù là một đặc tính duy nhất mà Chúa Giêsu đã tuyên bố.

Chúng ta gọi giáo huấn này của Người là những mối phúc, từ “beatus” theo nghĩa Latinh có nghĩa là hạnh phúc. Đầu tiên chúng ta nhận thấy rằng những mối phúc không phải là những điều luật, cũng không phải là những lời khuyên. Chúng là những lời tuyên bố. Chỉ một điều duy nhất mà hôm nay Chúa Giêsu đã nói chúng ta phải làm, đó là “hãy sung sướng và vui mừng”. Những điều khác, Người muốn trình bày những gì mà hạnh phúc phải gồm có, Người nói thẳng những người hạnh phúc là những người nghèo, người khóc lóc, người đau buồn và người đói khát. Ngài cũng nhấn mạnh những người hạnh phúc là những người bày tỏ sự thương xót, người kiến tạo hoà bình và người chịu đau khổ, bắt bớ. Đó không phải là danh sách mà chúng ta sẽ chọn lựa cho chính mình. Nếu chúng ta phải nhận lấy sự nghèo khổ, khóc lóc, đói khát như những món quà Giáng sinh, chúng ta sẽ nghĩ rằng ông già Noel phải trở thành ông già keo kiệt mới đúng.

Nhưng Chúa Giêsu không phải là ông già keo kiệt dù người nói những điều mà nhiều người nghĩ là “bịp bợm” chứ làm sao hạnh phúc với những thứ ấy được, chìa khoá bài giáo huấn của Chúa Giêsu được tìm thấy trong mối phúc thứ sáu. Mối phúc ấy nói: “Phúc cho ai có lòng trong sch, vì h s xem thy Thiên Chúa”.

Người có lòng trong sạch là những người giống như những vị thánh, trung tâm toàn bộ đời sống của họ là Thiên Chúa. Trong sự nghèo khổ, họ nhận ra sự giàu có thật chỉ tìm thấy nơi Thiên Chúa. Nơi sự đau buồn của họ, họ khám phá ra rằng niềm vui thật chỉ cảm nghiệm được ở nơi Thiên Chúa. Nơi sự thấp hèn, họ hiểu rằng chỉ có Thiên Chúa mới có thể nâng họ lên sống xứng đáng một con người. Trong sự đói khát, họ thấy giá trị của Thánh Thể, bởi Mình và Máu Chúa sẽ dẫn chúng ta tới bữa tiệc vĩnh cửu trên quê trời. Họ bày tỏ lòng thương xót mà không báo thù, họ đem đến sự an bình chứ không oán ghét, bởi vì họ biết rằng Thiên Chúa là nguồn mạch sự thương xót và bình an. Họ sẵn lòng chịu bắt bớ, bách hại bởi vì họ cảm thấy đặc ân được đau khổ và ngay cả cái chết chỉ là làm chứng cho sự thật.

Vì người có lòng trong sạch đặt trọng tâm vào Thiên Chúa nên họ nhận biết Chúa Giêsu đã thực hiện những gì Người đã rao giảng. Chúa Giêsu là người nghèo, người phải chịu nhiều đau buồn trong cuộc thương khó của Người. Người đã trở nên thấp hèn, bị khinh khi như là một tội nhân trên thập giá. Họ thấy Chúa Giêsu đã trải qua đói khát trong hoang địa để chuẩn bị cho sứ vụ của Người, Người đã chuyển giao sự trống rỗng của người đến cạn kiệt để rồi làm sung mãn chúng ta bằng sự sống và tình yêu của Người. Chúa Giêsu đã biểu lộ lòng thương xót đối với những người tội lỗi và Người đã hiến dâng mọi sự như là đặc ân sự bình an của Người.

Mặc dù không có mối phúc nào là một lề luật, chúng ta tự mình cũng phải thực hiện cho tốt: “Hãy trở nên giống Chúa Giêsu. Hãy có lòng trong sạch. Hãy tập trung toàn bộ đời sống của bạn ở nơi Thiên Chúa”. Đó sẽ là lời khuyên tốt cho chính chúng ta. Trong việc thực hành, chúng ta có thể làm trọn vẹn một điều mà Chúa Giêsu hôm nay bảo chúng ta làm: “Hãy sung sướng và vui mừng vì phần thưởng của các con ở trên trời thì rất lớn lao”.

 

22. Bàn tay Chúa – Lm Vũ Đình Tường

Nhắc đến bàn tay Chúa ta liên tưởng đến bàn tay ra oai thần lực, sức mạnh vô song, làm lay chuyển sao trời, rẽ nước khiến lòng biển khô cạn hoặc ngay cả lấp biển, dời non. Hình ảnh oai hùng đó dường như vắng bóng trong cuộc đời rao giảng công khai của Đấng Cứu Thế. Nơi Ngài chúng ta gặp bàn tay thi ân, giáng phúc. Bàn tay ban ân sủng, bình an. Bàn tay mở sách thánh trong hội đường. Bàn tay vỗ về con người đau bệnh. Bàn tay vác về con chiên lạc. Bàn tay mở mắt người mù. Bàn tay dìu người què đứng dậy bước đi. Bàn tay mở tai người điếc nghe được. Bàn tay sờ nắp quan cho kẻ chết sống lại. Bàn tay tha tội cho người bắt quả tang tội ngoại tình. Bàn tay giang ra kéo Phêrô khỏi chìm dưới làn sóng biển. Bàn tay cầm bánh và cá trong tay dâng lời tạ ơn Chúa Cha trước khi phân phát thực phẩm cho đám đông. Bàn tay chắp trước ngực cầu nguyện cùng Chúa Cha sau bài giảng hay sau khi làm phép lạ. Bàn tay rẽ đám đông lên núi một mình cầu nguyện trước tiếng hoan hô, ca tụng Ngài là vua, giải thoát họ khỏi ách đô hộ. Bàn tay dâng bánh chúc tụng. Bàn tay dâng rượu thiết lập Giao Ước mới trong bữa tiệc li. Bàn tay rửa chân cho các môn đệ. Bàn tay trải dài trên thập tự mong đón nhận toàn thể nhân loại vào con tim nồng ấm.

Bàn tay xây dng

Bàn tay Đấng Cứu thế gắn liền với việc xây dựng nước trời. Để làm gì? Để đón nhận những ai sống theo tinh thần Tám Mối Phúc Thật: sống nghèo khó, hiền lành, sầu khổ vì lẽ công chính, hay xót thương, trong sạch, xây dựng hoà bình, bị bách hại vì làm chứng nhân nước trời.

Tám Mối Phúc Thật nhấn mạnh đến đức nghèo khó. Nghèo khó bao gồm cả nghèo vật chất lẫn nghèo đức tin. Nhận biết mình nghèo khó nên sống phó thác, đặt trọn tin tưởng vào Chúa. Tự bản thân không có gì, thông minh, tài trí, sức khoẻ, tiền của và chức tước. Ta không làm chủ cả sự sống. Nghèo khó trong Chúa luôn sống tâm tình cảm tạ vì Chúa làm chủ mọi sự; ta chỉ là quản lí, coi sóc những gì Chúa giao phó.

Đời này từ bỏ mọi sự, giầu sang, tiền bạc lẫn chức tước bước theo Đức Kitô. Nếu Đức Kitô lại ban cho những gì trước đây họ đã từ bỏ thì giải thích sao cho thoả đáng việc từ bỏ lúc đầu để nhận lại nhiều hơn của cải vật chất sau này. Khó nghèo trong Chúa phải hiểu là có Đức Kitô là có tất cả vì nơi Ngài là nguồn sung mãn, là sức mạnh, là nguồn sống đời này và đời sau. Khó nghèo trong Chúa giúp sống đời sống khiêm nhường, hiền lành, xót thương, trong sạch, xây dựng hoà bình. Tất cả đều bắt nguồn từ ơn Chúa. Chúa đặt vào lòng người Tám Mối Phúc Thật để hướng dẫn con người sống theo đường lối Chúa. Trung thành sống Tám Mối Phúc Thật nhiều, ít, hay bất trung, phản nghịch do từng cá nhân tự quyết và chịu trách nhiệm về chọn lựa của riêng mình.

Phúc cho ai

Trong tám lần chúc phúc Đức Kitô luôn bắt đầu bằng câu: Phúc thay ai. Lời chúc phúc dành cho những ai sống Tám Mối Phúc Thật. Lời chúc thứ chín Đức Kitô nhắm đến các tông đồ, những người ngồi kề bên Chúa, từ bỏ mọi sự bước theo Đức Kitô. Lời chúc nhấn mạnh đến phần thưởng đời sau. Đời này họ bỏ mọi sự bước theo, đã thế họ còn bị bách hại, sỉ vả, vu khống đủ điều xấu xa không phải vì họ gây nên mà vì trung thành với Đức Kitô mà gặp sự khó, nên được Chúa ban ơn đặc biệt.

Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấy xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em trên trời thật lớn lao Mt 5,12

Các tông đồ hiểu lầm đời sống khó nghèo Đức Kitô rao giảng. Vì thế có lần các ông thắc mắc. Chúng con bỏ mọi sự theo Thầy để được gì? Đức Kitô đáp:

…. Chng h có ai b nhà ca, anh em, ch em, m cha hay rung đất, vì Thy và vì Tin Mng, mà bây gi ngay đời này, li không nhn được nhà ca anh em, ch em, m con hay rung đất gp trăm, cùng vi s ngược đãi và s sng đời đời đời sau. (Mc 10, 29tt).

Câu trả lời trên cho thấy ai trung thành sống Tin Mừng và chân thành theo Đức Kitô sẽ chia sẻ cuộc sống của Ngài. Cuộc đời của Ngài là cho đi tình thương, sống thể hiện ý Chúa Cha. Chia sẻ cuộc sống của Đức Kitô bao gồm cả vinh quang lẫn thập giá mà Đức Kitô tự nguyện vâng phục thánh ý Chúa Cha. Chia sẻ cuộc sống cho anh chị em khác chính là thương mến mọi người như anh em cùng cha Giêsu, trong đại gia đình Chúa, trong Giáo Hội. Giầu có không phải là lắm bạc, nhiều tiền mà chính là tự do, không bị đồng tiền chi phối lối sống, cách suy nghĩ. Nghèo tiền của, giầu tình người chính là đời sống bác ái, yêu thương Đức Kitô chọn sống trong cuộc đời rao giảng công khai của Ngài. Một khi giầu bác ái, yêu thương sẽ không còn cảm thấy tiền bạc, địa vị, tiếng tăm là quan trọng nữa.

Li chúc phúc

Khi Đức Kitô chúc phúc cho ai, Ngài không phải chỉ ban cho người đó ơn bình an, sức mạnh và niềm vui nội tâm mà còn lên tiếng ca ngợi đồng thời ban ơn thiêng như phần thưởng dành riêng cho tâm hồn ngay chính. Sống công chính nhận phần thưởng hai lần.

Lần thứ nhất Chúa ban ơn bình an, sức mạnh và niềm vui nội tâm – ngay tại đời này – để người đó tiếp tục tiến bước trên con đường phục vụ, hy sinh làm chứng nhân cho Đức Kitô.

Lần thứ hai Chúa ban ơn cao trọng hơn đó là sự sống trường sinh. Phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Lời chúc phúc được thể hiện trong tương lai, trong ngày gặp lại Đức Kitô trên thiên quốc.

Hạnh phúc thay ai học sống nghèo khó vì Chúa và vì Tin Mừng.

 

23. Chúa Nhật 4 Thường Niên

(Trích Radio Veritas Asia)

Gợi ý để sống và chia sẻ Tin Mừng

Ðức Giêsu không chỉ dạy ta về các mối phúc.

Chính Ngài nêu gương sống hạnh phúc.

Bài Tin Mừng hôm nay là khởi đầu của Bài Giảng Trên Núi. Qua đó tác giả Matthêu cho thấy Ðức Giêsu quả thật là vị tân lãnh đạo của dân mới của Thiên Chúa. Như xưa ông Môsê từ núi Sinai mang mười giới răn của Thiên Chúa công bố cho dân Ít-ra-en như thế nào, thì nay Ðức Giêsu cũng công bố luật mới của Thiên Chúa như được kiện toàn nơi bản thân Người như vậy. Dân mới của Thiên Chúa bao gồm tất cả những người được Ðức Giêsu mời gọi trở nên môn đệ của Người. Lời mời gọi ấy không loại trừ một ai như thấy rõ qua mệnh lệnh cuối cùng của Ðức Giêsu trước khi về trời, là: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.” (Mt 28,18-20).

Ngay với bài giảng đầu tiên này đối tượng đã là quảng đại quần chúng, tuy gần gụi nhất bên cạnh Ðức Giêsu là các môn đệ (c.1), trong đó có bốn người đầu tiên là các ông Anrê, Simon Phêrô, Giacôbê và Gioan, được Ðức Giêsu gọi trong khi hành nghề đánh cá nơi biển hồ Galilê (Mt 4,18-22). Vậy Ðức Giêsu không đòi hỏi người nghe phải là những người có trình độ nào về học thức tuy ơn đức tin đối với Giavê Thiên Chúa phải được hiểu ngầm. Ơn ấy nay phải được nới rộng để qui về Ðức Kitô bởi lẽ Chúa Cha đã trao phó mọi sự nơi Ðức Giêsu. Và không ai biết rõ người Con, trừ Chúa Cha; cũng như không ai biết rõ Chúa Cha trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mạc khải cho. (x.Mt 11,27).

Ðức Giêsu cho biết hoàn cảnh thực sự của loài người dưới cái nhìn của Thiên Chúa. Vậy dựa vào thẩm quyền từ trời cao, Ðức Giêsu đến cho biết hoàn cảnh thực sự của loài người dưới cái nhìn của Thiên Chúa. Thiên Chúa là Tình Yêu (1Ga 4,16). Ngài không đứng trung lập nhưng nghiêng hẳn về những kẻ bé nhỏ; Ngài không loại bỏ người giầu, nhưng buộc người giầu phải được hoán cải để tham dự vào Tình Yêu Thiên Chúa là đặt mình phục vụ người nghèo. Chính Ðức Giêsu nêu gương phục vụ suốt đời mà cử chỉ quì xuống rửa chân cho các môn đệ (Ga 13,1-17) chỉ nói lên được phần nào mà thôi.

+ Thực ra, chính cuộc đời hy sinh và tự hạ cho tới cái chết nhục nhã của Ðức Giêsu biểu lộ tình yêu Thiên Chúa, làm nên Nước của Thiên Chúa. Ai đón nhận cái nghèo đó của Ðức Giêsu thực sự là đón nhận chính Tình Yêu từ trời cao nên sở hữu được Nước Thiên Chúa.(c.3).

+ Ai chấp nhận gương hiền hậu và khiêm nhường của Ðức Giêsu (x.Mt 11,28-29) sẽ được đất hứa làm gia nghiệp (c.4).

+ Ai chấp nhận nỗi sầu khổ của Ðức Giêsu tại vườn Ghết-sê-ma-ni (x.Mt 26,36-46) là nỗi sầu khổ cứu mình khỏi tội, người đó sẽ được chính Thiên Chúa ủi an (c.5)

+ Ai ước ao giữ trọn đức công chính theo gương Ðức Giêsu (x.Mt 3,15), người đó sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng (c.6).

+ Ai biết noi gương Ðức Giêsu, Ðấng đã xin với Thiên Chúa Cha tha cho những kẻ đóng đinh mình trên thập tự, người đó đã được Thiên Chúa xót thương vì được Ngài cho nên giống Con của Ngài (c.7).

+ Mối phúc được nhìn thấy Thiên Chúa phải là mối phúc do chính Ðức Giêsu thông ban theo lời Người tuyên bố rằng: “Không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mạc khải cho (c.8; x.Mt 11,27).

+ Mối phúc làm con Thiên Chúa (c.9) nhất thiết cũng phải do chính Ðức Giêsu là “con yêu dấu của Thiên Chúa” (Mt 3,17); chính nhờ tham dự vào sự sống, sự chết và sự sống lại của Ðức Giêsu, ta xây dựng bình an đích thực và dự phần vào tư cách làm Con Thiên Chúa của Ðức Giêsu.

+ Mối phúc cuối cùng (cc.10-12) chỉ là việc ta kết hiệp mật thiết với chính Ðấng thiết lập nên Nước Thiên Chúa nơi bản thân Ngài là Ðức Giêsu Kitô: “Nào Ðức Kitô chẳng phải chịu đau khổ rồi mới được vinh quang ư?” (Lc 24,25).

Vậy bài giảng về các mối phúc thật ra cũng chỉ qui về một mối phúc chính là tình yêu Thiên Chúa hiện thân nơi Ðức Giêsu làng Nadarét. Tình yêu ấy khi xuất hiện trong bối cảnh văn hoá xã hội Do thái đã chọn đứng về phiá người nghèo.

Ðức Giêsu đứng về phía người nghèo

Luca cho thấy Ðức Giêsu nhắm thẳng đám người nghèo đó khi nói với họ: Phúc cho anh em là những kẻ khó nghèo, vì Nước Thiên Chúa là của anh em. Phúc cho anh em, những người đang đói khát, vì anh em sẽ được no lòng. Phúc cho anh em, những người đang phải than khóc, vì anh em sẽ được vui cười. Phúc cho anh em, những người đang bị ghét bỏ, hất hủi, sỉ nhục (x.Lc 6,20-22).

Liền sau đó, Luca đưa ra những lời báo dữ đối với những người giầu có, no phỉ, những kẻ đang vui sướng cười cợt, đang được thiên hạ tán dương (x.Lc 6,24-26).

Nhưng Ðức Giêsu đã không dừng lại ở lối nói suông. Người minh chứng bằng hành động cụ thể về nội dung Nước Thiên Chúa dành cho người nghèo, bằng cách bày tỏ lòng ưu ái đặc biệt hai thành phần thời đó đang bị gạt ra bên lề xã hội, đó là những người bệnh tật và những người không có quyền công dân.

Các sách Tin Mừng nêu hai loại người bệnh, đó là kẻ tàn tật và kẻ bị quỉ ám. Tàn tật gồm những chứng bệnh có thể quan sát được như mù, què và những thứ bệnh da liễu, nhất là phong hủi. Ðó là những người hết còn lao động được, nên xã hội kể là thành phần “ăn hại” vì sống dựa vào người khác.

Còn “bị quỉ ám” chủ yếu là những người mắc bệnh tâm thần, động kinh, dễ té xỉu và được kể là bị quỉ vật. Người câm và điếc cũng được kể là bị quỉ ám. Người phụ nữ còng lưng thì được kể là bị “quỉ còng” ám (x.Lc 13,10-15). Chẩn bệnh kiểu đó khiến ta nực cười nhưng nó cho thấy não trạng của người thời ấy kể bệnh nhân nằm dưới quyền lực của ma quỉ nên thường xuyên bị coi là ô uế nên không được tham gia việc thờ phượng nơi Ðền Thờ.

Khi chữa bệnh Ðức Giêsu phục hồi lại phẩm giá của bệnh nhân, cho họ được tham gia Nước Thiên Chúa. Họ không còn bị gạt ra bên lề nữa, nhưng ở ngay tâm điểm của Tình Yêu Thiên Chúa.

Ngoài hạng người bệnh tật, nhiều thành phần khác cũng bị gạt sang một bên, thời Ðức Giêsu.

– Thứ nhất là đàn bà, con trẻ : Hoàn cảnh phụ nữ tại Áp-ga-nit-tăng ngày nay chỉ là hình ảnh nối dài của phụ nữ vùng Trung Ðông xưa. Họ phải nhốt mình trong nhà. Khi ra đường, họ phải lấy khăn che mặt và không được mở miệng nói với đàn ông. Vợ lệ thuộc chồng tới mức có thể bị chồng sa thải vì bất cứ lý do nhỏ bé nào, chẳng hạn như nấu cơm khê.

Sự kiện Ðức Giêsu cho một số phụ nữ tháp tùng Người trên đường đi rao giảng Tin Mừng cùng với nhóm Mười Hai, quả là điều mới mẻ về Nước Thiên Chúa. Cũng là điều gây ấn tượng không nhỏ khi Ðức Giêsu đòi các môn đệ phải hoán cải để trở nên như trẻ nhỏ thì mới được vào Nước Thiên Chúa (Mt 18,9).

– Thứ hai là những người làm nghề bất lương: Hạng người này bao gồm không những người thu thuế như Lêvi (Mc 2,14), mà cả những người chép mướn, những người thợ dệt (hai loại này bị ngờ là “bất hảo” vì tiếp cận với phụ nữ), người đổi tiền, cầm đồ, đánh cờ, chăn súc vật (mang tiếng cho súc vật ăn lấn sang đất kẻ khác).

Vậy để hưởng các mối phúc thật như Ðức Giêsu dạy ta hôm nay, ta cần nhìn thẳng bản thân Ngài như chính Ngài thể hiện các mối phúc đó. Không có điều gì Ngài dạy ta mà Ngài lại không làm gương cho ta. Không có giá trị nào về Nước Thiên Chúa được Ngài nêu lên, mà chính Ngài không trả giá bằng việc hy sinh chính mạng sống mình: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình.” (Ga 15,13).

Một số câu hỏi gợi ý

  1. Bạn đọc Mt 5,1-12 và Lc 6,20-26 về các mối phúc thật thì nhận thấy những khác biệt nào? Tại sao?
  2. Ðức Giêsu không dạy ta về bất cứ mối phúc nào mà chính Ngài lại không nêu gương cho ta. Bạn thấy tấm gương nào của Chúa Giêsu về các mối phúc giúp bạn hơn cả?
  3. Khi Ðức Giêsu nói “Phúc cho anh em là những người nghèo” (Lc 6,20), Người có ý nói về: Bệnh nhân? Người tàn tật? Kẻ bị quỉ ám? Ðàn bà và trẻ con? Người thu thuế? Người chép mướn? Người thợ dệt? Người đổi tiền? v.v. Tại sao?

 

24. Đường hẹp – Radio Veritas Asia

(Trích từ ‘Sống Tin Mừng’)

Khi M Têrêsa thành Calcutta còn sng, người ta k li rng, mt ln M đang ra nhng vết gh l ca người b bnh cùi thì có mt thương gia giàu có đến thăm nhà, thy M đang làm vic y, ông phát biu ý kiến như sau: – Nếu có ai cho tôi mt triu bc để làm công vic như M đang làm thì tôi cũng không dám làm.

M Têrêsa vui v tr li: – Tôi cũng vy, nếu có ai cho tôi mt triu bc tôi cũng không th làm điu ông làm.

Tin ca vt cht không phi là yếu t chính và chúng ta cũng không th nào đo lường giá tr tinh thn ca hành động con người bng tin ca vt cht, nhưng đây là điu mà thường tình mi người chúng ta cũng d b cám d suy nghĩ và hành động như vy, đó là hành động theo s khôn ngoan ca xác tht, theo như bài đọc hai ca thánh Phaolô Tông đồ nhc li cho chúng ta.

Bài Phúc âm hôm nay trình bày cho chúng ta một căn bản, một hiến chương cho đời sống đức tin của mình, đời sống đức tin của người môn đệ Chúa qua mọi thế hệ, trong mọi hoàn cảnh và chúng ta không thể nào hiểu được, cũng như không thể nào sống thực hành những điều phúc.

Tám mối phúc thật được ghi lại trong Phúc Âm hôm nay, trong một kiểu nói phàm trần với tâm thức tự nhiên con người, với lẽ khôn ngoan xác thịt như cách nói của thánh Phaolô Tông đồ. Chìa khoá để hiểu và sống những điều Phúc âm mà chính Chúa Giêsu Kitô đã dạy chúng ta là chính Ngài là Chúa. Chúa đã sống trọn vẹn những điều phúc này, nhất là trên núi Sọ khi để mình bị treo trên thập giá trong một hành động dâng hiến tuyệt đỉnh chính mình cho Thiên Chúa Cha, và chỉ khi nào chúng ta như Chúa Giêsu trên thập giá, bắt chước Chúa Giêsu trên thập giá chúng ta mới hiểu và mới sống như Chúa đã sống.

Không phải vì tiền của, vì danh vọng mà Mẹ Têrêsa có thể thực hiện những gì Mẹ đã làm cho những anh chị em thấp cùng nhất trong xã hội, nhưng chính là tình yêu Chúa tràn đầy nơi Mẹ, không phải nhờ tiền của mà con người có thể sống thánh thiện, sống thương xót, sống hòa bình, sống công bằng, sống mối phúc thật như Chúa Giêsu đã dạy, nhưng chính là tình yêu Chúa, nhờ Chúa biến đổi, nhờ sống kết hiệp mật thiết với Chúa, chúng ta mới có đủ can đảm để sống những gì Chúa mời gọi chúng ta sống: “Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, phúc cho những ai hiền lành, phúc cho những ai đau buồn, phúc cho những ai đói khát điều công chính, phúc cho những ai hay thương xót, phúc cho những ai có lòng trong sạch, phúc cho những ai ăn ở thuận hòa, phúc cho những ai bị bách hại vì lẽ công chính”.

Xin Chúa giúp mi người chúng ta được sng như Chúa, được sng kết hip vi Chúa mi ngày mt hơn để chúng ta có th hiu và sng tám mi phúc tht như Chúa đã sng. Xin Chúa giúp mi người chúng ta được trung thành vi đức tin. Amen.

 

25. E.T. gọi về nhà

Phim “E.T.” nói về một người hành tinh khác đến trái đất và bị lọt lại một mình. E.T. làm bạn với cậu bé Elliot cùng những anh chị em của Elliot và nhiều người khác nữa. Họ đã vượt qua nhiều cuộc phiêu lưu thử thách và cuối cùng E.T. đã gọi về nhà và được phi thuyền của dân tộc E.T. trở lại đón. E.T. có nghĩa là “Extra Terrestrial”. Mặc dù người làm phim không chủ ý luồn Phúc Âm vào cuốn phim nhưng nó lại hiện diện trong toàn cuốn phim.

Trước hết, the Extra Terrestrial đến trái đất như là biểu tượng Nhập Thế. Hơn nữa, trong cuộc phiêu lưu của E.T. nó gần như song song với câu truyện Thánh Kinh về Chúa Giêsu. E.T. chọn một số bạn thương mến và đi theo E.T. Hầu hết mọi người đều chống đối bọn họ, đặc biệt là các khoa học gia chỉ muốn giết E.T. để khảo nghiệm. E.T. cũng làm những phép lạ như làm cho cây khô sống lại, chữa lành bệnh nhân bằng cách sờ vào người bệnh. E.T. đi đâu cũng tạo nên cảnh thương yêu. Cuối cùng E.T. bị chết vì những người chống đối và rồi E.T tự phục sinh. Rồi phi thuyền trở lại và đón E.T. về, trong cảnh đi về ấy, Elliot nhìn lên bầu trời tựa như cảnh các môn đệ nhìn Chúa Giêsu lên trời vậy. Trước khi trở về quê hương của mình, E.T. đã nói lời cuối là: “Tôi sẽ ở với các bạn luôn mãi” (Mt 28,20).

Nếu chúng ta mở rộng lòng ra thì cuốn phim đó cũng gợi lại cho chúng ta một sự trong sáng, mủi lòng, tìm thấy một sự biết ơn mới đối với Chúa Giêsu vì khi Ngài xuống thế, vì Ngài đã chọn trái đất này làm quê hương của Ngài. Trong Phúc Âm, chúng ta thấy Chúa Giêsu không bao giờ làm cái việc gọi về quê hương hay tìm cách trở về. Thánh Gioan tông đồ đã viết: “Ngài đến và ở giữa chúng ta… Ngài đến nơi nhà Ngài”. Chúa Giêsu đã yêu nhân loại quá mức nên Ngài không đến như một người xa lạ và chỉ chực chờ có cơ hội là bỏ ra đi ngay. Đúng hơn, Ngài đến và hòa nhập vào sự cô đơn, lo lắng, và tan nát của cả nhân loại.

Có sự trái ngược đó là Chúa Giêsu đến ở giữa chúng ta, đồng thời Ngài nói rằng thế gian này không phải là nhà của chúng ta. Ngài cho biết nhà chúng ta không phải ở thế giới này hay ở một thế giới kế cận nào. Nhà thật sự của chúng ta chính là sự quan hệ giữa nhân loại chứ không phải là nơi chốn. Và nhà thật sự của chúng ta là ở trong Chúa. Như Thánh Augustinh nói, chúng ta được dựng nên “với một tâm hồn không bao giờ nghỉ cho tới khi nào tìm thấy sự nghỉ yên trong Chúa”.

Vấn đề chính đối với một số người trong chúng ta ngày nay đó là nhớ nhà. Chúng ta có thể không nhận ra, hay chối từ điều ấy, nhưng sự thổn thức luôn luôn hiện diện ở đó– và sẽ chẳng bao giờ nó yên lặng cho tới khi chúng ta tìm thấy căn nhà thật sự của chúng ta là ở trong Thiên Chúa.

Điều ấy chẳng lạ lùng gì khi các ngụ ngôn của Chúa Giêsu thường nói về sự trở về nhà. Người con hoang đàng trở về trong vòng tay mở rộng đón mừng của người cha với đầy sự hoan lạc. Chúng ta cần phải có cảm nghiệm sự trở về này. Chúng ta phải trở về cùng Chúa, nếu như chúng ta muốn được chia sẻ sự sống vĩnh cửu của Ngài. “Sự sống vĩnh cửu” đối với một số người cho rằng nó ở tương lai. nhưng Chúa Giêsu nói sự sống ấy chính là một tính chất thực tại của cuộc sống này chứ không phải một sự sống của chiều kích khác.

Sự sống vĩnh cửu là chính mối dây liên kết hiện tại, là cảm nhận sự Hiện Hữu của Tình Yêu Thiên Chúa trong toàn thể con người ta. “Phúc thay cho người có tinh thần nghèo khó vì Nước Trời là của họ” Chúa Giêsu đã dạy thế trong bài Tin Mừng hôm nay (Mt 5:3). Nghèo trong nghĩa Thánh Kinh chính là sự nhận biết rằng toàn thể con người, sự sống mình lệ thuộc vào Chúa; nhận biết xa rời Ngài là chúng ta chẳng có gì hay sức mạnh để trở nên con người theo như chủ đích khi chúng ta được dựng nên; nhận biết sự thao thức băn khoăn tìm kiếm điều gì đó cao cả hơn của tâm hồn cho tới khi chúng ta tìm thấy nghỉ an trong Chúa.

“Phúc cho ai có lòng thương xót vì họ sẽ được xót thương”; “Phúc cho ai ăn ở thuận hòa vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa” (Mt 5,7-9). Những điều ấy có nghĩa là sự toàn hảo của con người chúng ta lệ thuộc trên sự trở về của ta với Thiên Chúa và tha nhân. Trong và qua mối cảm nghiệm sự hiện diện của tình yêu Thiên Chúa, chúng ta trở nên liên kết với hết mọi người qua tình yêu. Yêu Chúa và tha nhân không thể chia cách tách rời được.

Hãy để Ngài chỉ lối và hướng dẫn chúng ta; rồi chúng ta sẽ cảm nghiệm được tình yêu của Ngài ở ngay trong chúng ta. Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó vì họ sẽ tìm thấy bình an và chính họ sẽ xây dựng an bình.

 

26. Hạnh phúc đích thực

(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)

Vào sớm mùng 1 Tết, người ta đến đình chùa, đền phủ để hái một cành lộc non mang về nhà, với mong muốn được Thần linh thiêng ban cho phúc lộc suốt năm. Nhưng phong tục hái lộc đầu năm bắt nguồn từ đâu? Chuyện xưa kể rằng, nhân một ngày đầu xuân, khi các con đã khôn lớn, Vua Hùng bèn cho mời các Lạc Hầu, Lạc Tướng, thần dân và các con đến truyền dạy rằng: “Nay các con đã khôn lớn, ta muốn các con đi dạy dân làm ăn và trấn cứ các nơi”. Nghe cha phán truyền, các con đều bịn rịn không muốn chia tay mà muốn ở lại cùng cha mẹ, các Lạc Hầu, Lạc Tướng, dân làng chưa biết tấu trình với Vua thế nào thì Hoàng hậu nói nhà Vua: “Các con đều luyến mẹ, thương cha không muốn đi xa, thiếp nghĩ rằng Nhà vua nên làm lễ tế trời đất rồi dùng cách hái lộc chia cho các con… các con, ai nhận được cành lộc đi phương nào thì phương ấy mà đi”. Thế rồi, làm Vua làm lễ tế trời đất và cầu trời đất phù hộ cho mưa thuận gió hòa, muôn dân no ấm. Chờ lúc sang canh, Vua cùng Hoàng hậu vào rừng hái lộc đầu xuân. Sáng sớm, khi mặt trời xuất hiện đằng Đông, Vua vời các con chia cho mỗi người một cành lộc và dạy rằng: “Các con hãy mang cành lộc này đi trấn giữ các phương răn dạy dân làm ăn, trên đường đi nếu gặp điều gì không may, các con hãy mang cành lộc còn đượm sương sớm này mà vẩy lên trời thì thú dữ, ma tà sẽ bỏ chạy không hại được các con và các con sẽ được hạnh phúc”. Từ đó, phong tục xin lộc đầu xuân đã trở thành nét văn hóa Tết trong đời sống của người Việt Nam.

Điều quan trọng nhất trong cuộc đời chúng ta là gì? Đi tìm hạnh phúc? Hạnh phúc là gì? Tiếng pháp là Bonheur (Bon là tốt, heur là thời giờ) hạnh phúc là thời giờ tốt lành cho mình), tiếng Tàu là  Xìngfú (hạnh phúc), tiếng Anh là Happy (hạnh phúc). Hạnh phúc là gì? Là phần thưởng cả nội tâm lẫn thể xác (chứ không phải vật chất). Cho nên, có những người tìm tìm vật chất để được hạnh phúc thì lầm vì cái vật chất chỉ cho cái khoái lạc (khoái là cái mau chóng nhẹ nhàng, lạc là vui, cái vui đó mau chóng qua mau). Ví dụ, uống rượu cho đã thì khoái lạc chứ không hạnh phúc. Uống vào ra đường phạt (7 triệu) chứ hạnh phúc gì; mình chửi sướng cái miệng, thỏa mãn chính mình nhưng xong mình có tội, mất một người chứ hạnh phúc gì! Vì vậy, hạnh phúc là phần thưởng nội tâm và thể xác, một cảm giác bình an, một cảm giác thỏa mãn vì mình được thưởng vì đã (1) chấp nhận hoàn cảnh, (2) mình làm điều tốt, (3) mình gieo hạnh phúc cho người khác.

Thật thế, lâu nay chúng ta tưởng hạnh phúc nằm nơi bạc tiền, của cải, nơi lạc thú vật chất… nên người người ta đi tìm và vẫn hằng khao khát mà không biết rằng hạnh phúc phần thưởng Chúa ban cho khi mình biết chấp nhận hoàn cảnh của cuộc đời mình, làm điều tốt và gieo hạnh phúc cho người khác. Qủa thế, Thiên Chúa là Cội Nguồn hạnh phúc, của hoan lạc, an bình và của Tình Yêu. Vì chưng, Chúa Giêsu, Ngôi Hai Thiên Chúa đã chấp nhận hoàn cảnh giáng sinh làm người giống chúng ta mọi đàng ngoài trừ tội lỗi. Ngài chấp nhận sống kiếp phàm nhân, chịu nạn chịu chết để cứu độ nhân loài. Và khi sống trên trần gian, Ngài đã làm biết bao nhiêu điều tốt đẹp cho con người: rao giảng Tin Mừng, yêu thương, phục vụ chữa lành bệnh nhân, cho kẻ đói ăn, tha tội và cho kẻ chết sống lại… Và cuối cùng Ngài gieo hạnh phúc cho con người là chết vả sống lại để cho con người được giao hòa với Chúa và với nhau, kết hiệp với Chúa, được sống dồi dào đời này và sống lại trong ngày sau hết. Cho nên, Tất cả những ai đang khao khát tình yêu, an bình và hạnh phúc là đang khao khát Chúa, chạy đến với Chúa và chính Ngài sẽ ban cho.

Nhưng tiếc thay, người ta đã bỏ hình bắt bóng, tức người ta săn đuổi ảo ảnh của hạnh phúc mà không chịu tìm đến cội nguồn hạnh phúc là Chúa Cả trên trời. Nói đâu xa, thời thanh xuân, Augustino là con người khao khát hạnh phúc cách mãnh liệt. Anh bôn ba kiếm tìm hạnh phúc trong văn chương và triết lý, trong dục vọng và lạc thú trần gian… nhưng Anh đã thất vọng ê chề và cảm thấy tâm hồn chất đầy sầu đau khắc khoải. Mãi đến năm ba mươi tuổi, Augustino mới cảm thấy tất cả những gì Anh đạt được chỉ là ảo ảnh của hạnh phúc, chẳng khác chi chỉ thấy bóng trăng in hình đáy nước nhảy xuống tìm cho ra nào ngờ chết ngộp trong tội lỗi mà không biết rằng Thiên Chúa mới là ‘Vầng Trăng’ thật, là Hạnh Phúc thật đang ở bên mình, với mình và trong mình nên Anh Augustinô đã ngoi lên khỏi vũng lầy tội lỗi về với Chúa và Chua đã ban cho Ngài hạnh phúc đích thực là thành nhân và thành vị Thánh vĩ đại.

Thiên Chúa mới là nguồn Hạnh Phúc đích thật mà loài người luôn vươn tới, luôn khát khao. Chính Thiên Chúa đã đặt vào cõi lòng mỗi người chúng ta một khát vọng vô biên hướng về hạnh phúc mà không gì trên đời nầy có thể khoả lấp được. Vì vậy, qua trích đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta tám nẻo đường đưa nhân loại về cội nguồn hạnh phúc mà ta quen gọi là tám mối phúc thật. Ai bước theo tám nẻo đường nầy chắc chắn sẽ đi đến Cội Nguồn Hạnh Phúc là Thiên Chúa và Ngài sẽ ban cho chúng ta hạnh phúc đích thực trong đời sống này: 

* Tinh thần nghèo khó: biết nhận ra sự nghèo nàn của nội tâm mình, nhận biết rằng mình không là gì cả, tất cả những gì ta có là của Chúa ban…

* Cư xử hiền lành, biết nhường biết nhịn và mềm mỏng với mọi người…

* Chấp nhận sầu khổ hơn là gây khổ đau cho người khác…

* Khao khát trở nên người công chính,

* Đầy lòng xót thương, đối xử nhân ái với mọi người…

* Tâm hồn trong sạch, không chất chứa điều tà, điều gian ác, điều bất công và tội lỗi…

* Chung tay xây dựng hoà bình, sống hoà thuận với mọi người cũng như làm cho mọi người hoà thuận với nhau…

* Sẵn lòng chịu bách hại vì sống công chính thanh liêm và thánh thiện…

Vậy, bí quyết để có hạnh phúc đích thực cho mình và cho tha nhân đã rõ, vấn đề còn lại là chúng ta hôm nay có đủ khôn ngoan, ý chí nghị lực và bản lãnh để chọn cho mình con đường mà Chúa đã đề nghị với chúng ta hay không. Ước gì qua Lời Chúa hôm nay như một Lộc Thánh mà chúng ta hái được trong những ngày đầu năm này và hãy sống Lộc Thánh trong năm và suốt đời ta hầu làm cho cuộc sống chúng ta có được hạnh phúc như lòng chúng ta và lòng Chúa ước mong. Amen.

 

27. Chúa tôn người khiêm hạ

(Suy niệm của Lm. Minh Vận, CRM)

Đang lúc thi hành việc mục vụ, Đức Tổng Giám Mục Roncalli nhận được một bức thư nặng lời chê bai chỉ trích ngài về mọi mặt, do tay một Linh Mục bất mãn viết. Đọc xong bức thư, Đức Cha Roncalli không nói một lời, bình tĩnh, thản nhiên và vẫn yêu thương Linh Mục ấy.

Thời gian trôi qua, ngài được thăng chức Sứ Thần Tòa Thánh tại Paris, rồi Hồng Y Giáo Chủ tại Venezia và sau cùng đắc cử Giáo Hoàng với danh hiệu Gioan XXIII năm 1958.

Năm ấy, vị Linh Mục viết bức thư bất mãn kia hãy còn sống. Một hôm gặp dịp Giáo Dân vùng đó tổ chức cuộc hành hương Roma để triều yết Đức Tân Giáo Hoàng, cũng là vị nguyên Tổng Giám Mục yêu kính của họ, Linh Mục ấy cũng ghi tên theo phái đoàn. Đến Roma, ngài lại xin đặc ân được tiếp kiến riêng Đức Thánh Cha. Lời thỉnh cầu được Đức Thánh Cha chấp thuận. Sau đây là câu truyện do chính Linh Mục ấy thuật lại:

“Trong lúc ở phòng đợi đến phiên được triều yết Đức Thánh Cha, đầu óc tôi cứ nghĩ đến bức thư bất mãn năm xưa mà lòng tôi vô cùng hối hận. Tôi thầm nghĩ đã mấy chục năm qua, chắc Đức Thánh Cha cũng đã quên rồi. Nhưng rủi mà ngài còn nhớ thì sao? Mà thôi, đã lỡ xin gặp riêng, bây giờ rút lại cũng không được nữa. Lòng tôi cảm thấy xao xuyến hồi hộp. Hy vọng ngài nhân hậu sẽ bỏ qua và tha thứ cho tôi.

Đang lúc miên man suy nghĩ thì cánh cửa mở, Đức Ông phụ trách dẫn tôi vào. Vừa thấy tôi, Đức Thánh Cha niềm nở đưa tay bắt và mời tôi ngồi. Ngài ân cần thăm hỏi công việc mục vụ của tôi, của Giáo Phận và bùi ngùi nhắc đến những bạn cũ năm xưa. Ngài thương nhớ tất cả, không trừ ai, như thể xứ sở tôi là chính quê hương của Ngài vậy.

Lúc ấy tôi đang khấp khởi, vì tưởng Đức Thánh Cha đã quên hẳn bức thư hỗn láo năm nào. Câu truyện vẫn tiếp tục trong bầu khí vui vẻ thân tình; bỗng tôi thấy ngài đưa tay với lấy cuốn Thánh Kinh và từ từ mở ra. Ngài để trước mặt tôi bức thư khốn nạn. Hồn phách lạc xiêu, tôi xấu hổ và sợ hãi quá đỗi, ước chi được độn thổ cho khuất. Có ngờ đâu mấy chục năm qua mà bức thư vẫn còn nguyên. Tôi đang lúng túng với muôn ngàn âu lo, thì Đức Thánh Cha đã cầm lấy tay tôi và dịu dàng bảo: “Con đừng sợ, Cha không bao giờ giận con đâu. Cha cám ơn con, Cha cũng là con người, cũng có những yếu đuối, Cha ngăn bức thư con viết vào cuốn Kinh Thánh, để hằng ngày đọc vào đó mà hồi tâm kiểm điểm, hầu có thể dứt khoát với những khuyết điểm còn tồn tại hoặc xa tránh những lầm lỗi có thể xảy đến trong tương lai. Mỗi lần như thế Cha lại nhớ đến con và cầu nguyện cho con”.

Nghe xong, linh hồn tôi chu du phương xa lúc ấy mới trở về. Tôi lấy lại bình tĩnh, nhận quà ngài trao tặng. Ngài còn chúc lành cho tôi, ôm hôn từ giã tôi. Tôi ra về, lòng không bao giờ quên được chân dung vị Giáo Hoàng nhân hậu khiêm nhu đến thế”.

  1. CHÚA TUYỂN CHỌN NGƯỜI KHIÊM HẠ

Qua bài sách tiên tri Sophonia và bài thánh thư của Thánh Phaolô gởi Giáo Đoàn Corintho hôm nay, chúng ta nhận thấy cái diễm phúc của chúng ta được Chúa tuyển chọn làm con cái Chúa, làm Bạn Tâm Phúc của Chúa Kitô, không phải vì chúng ta tốt lành xứng đáng, nhưng chính là vì chúng ta hèn mọn bất xứng. Theo giáo huấn Thánh Phaolô thì, không phải chúng ta là người khôn ngoan, quyền thế, sang trọng mà Chúa đã tuyển chọn; nhưng trái lại, chỉ vì chúng ta hèn hạ, đáng khinh chê trước mắt trần gian mà chúng ta đã được Chúa đoái thương; để không ai trong chúng ta có thể tự hào được, rồi Thánh Nhân đã kết luận: “Nếu ai muốn tự phụ, thì hãy tự phụ trong Chúa” (xem 1 Cor 1:26-31).

Tìm hiểu Tin Mừng là cuốn lịch sử tình yêu thương của Chúa, chúng ta thấy Chúa đã chọn Đức Trinh Nữ Maria, một thôn nữ khiêm hạ thành Nazareth để làm Mẹ sinh ra Con Một Chúa và thỉnh mời Mẹ cộng tác với Ngài trong sứ mạng Cứu Thế. Rồi thiết lập Giáo Hội để tiếp tục sứ mạng Cứu Thế của Chúa, Chúa đã chọn một nhóm ngư phủ vô danh tiểu tốt, chất phác quê mùa. Cũng nhờ nhóm dân thuyền chài quê mùa đó, mà Chúa đã thi thố biết bao việc lạ lùng trên trần gian: Một Giáo Hội vĩ đại lan rộng khắp thế giới, đến nỗi không một ai, kể cả những kẻ thù nghịch, những người chống đối, thù ghét bách hại cũng phải kính nể, phải đầu hàng, như chính lời Chúa đã tiên báo cho Thánh Phêrô: “Con là Đá, trên Đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, dù các quyền lực của hỏa ngục cũng không thể phá hủy được”.

Đọc lịch sử Giáo Hội, chúng ta cũng còn thấy, biết bao việc vĩ đại Chúa đã dùng các tôi trung con thảo khiêm nhu của Chúa thực hiện. Biết bao kẻ chống đối, phi bác, nhưng Giáo Hội vốn đứng vững. Biết bao việc kỳ diệu, những phép lạ Chúa thực hiện qua những dụng cụ đơn sơ chất phác khiêm hạ, như Gioan Vianney Cha sở xứ Ars, Bernadetta thôn nữ chăn chiên, Labourée Chị Dòng khiêm tốn, ba trẻ Fatima đơn sơ bé mọn.

  1. CHÚA BAN ƠN CHO NGƯỜI KHIÊM HẠ

Quả thật, theo lời Thánh Pherô và Giacobê Tông Đồ: “Chúa chống lại kẻ kiêu căng và ban ơn cho người khiêm hạ”, và theo lời Đức Mẹ trong kinh Ngợi Khen: “Chúa truất phế khỏi ngai vàng những người quyền thế; và tôn vinh những kẻ hèn mọn khiêm nhu”. Chính Chúa Kitô cũng đã trịnh trọng tuyên bố: “Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”.

Thánh Phaolô đã dám quả quyết minh bạch giáo huấn chân thật của Chúa Kitô: “Những điều mà thế gian cho là điên dại thì Chúa đã tuyển chọn, để làm cho những người khôn ngoan phải xấu hổ; những điều mà thế gian cho là hèn hạ, thì Thiên Chúa đã kén chọn để làm cho những người mạnh mẽ phải hổ ngươi; hầu cho không ai còn có thể huyênh hoang được” (xem 1 Cor. 1:26).

Do đó, theo lời tiên tri Sophonia khuyên nhủ chúng ta: “Hãy tìm Chúa, hãy tìm công lý, hãy tìm sự khiêm nhu, nếu chúng ta muốn được đẹp lòng Thiên Chúa, được Chúa cứu độ và đạt tới Đích Thánh Thiện như Chúa mong muốn” (xem Soph 2:3;3:12-13).

Kết Luận

Các Thánh là những sinh viên ưu tú và thành tâm thiện chí đã tốt nghiệp nơi trường đại học của Thầy Chí Thánh, các ngài đã đạt tới bậc tối ưu trong môn học thần diệu Chúa dạy: “Các con hãy học theo gương Thầy, vì Thầy hiền dịu và khiêm nhu thật lòng” (Mt 11:29). Chính vì thế mà các Thánh tới Đích Thánh Thiện, đã làm vinh danh Chúa, đã chu toàn được sứ mạng chinh phục các linh hồn về với Chúa, đã nêu cho nhân loại những tấm gương đáng khâm phục và noi theo bắt chước.

Xin Chúa cho chúng ta được thấu hiểu giá trị đích thực bài học khiêm tốn của Chúa, được thấm nhuần tình thần cao cả này và can đảm đem ra thực hiện trong đời sống hằng ngày, để chúng ta cũng được Chúa hài lòng như Chúa đã hài lòng với Mẹ Maria và các Thánh.

 

28. Phúc thay

Trong Kinh Thánh, “Hạnh phúc” là tiếng ca tụng người biết làm cho ơn Chúa ban sinh lợi, nên họ cảm thấy hạnh phúc ngay từ bây giờ, và nếu họ luôn trung thành với con đường đã chọn, họ sẽ được nhìn nhận là người công chính trong giờ phán xét.”(Tin Mừng thánh Matthêu, Centurion, 1991, tr.58)

  1. Bn mi phúc đầu ca Matthêu: ca tng người biết hướng v Thiên Chúa và t chi bo lc.

* “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ”. Sự nghèo khó mà mối phúc này nhắm tới không phải là sự nghèo khó về vật chất; nhưng là thái độ của một người nghèo tự nhận mình không có quyền đòi hỏi gì trước mặt Chúa, trái lại mọi sự mình có đều do bàn tay nhân từ của Thiên Chúa.

  1. Potel chú giải: “Người Kitô hữu phải nhìn nhận mình đã lãnh nhận sự sống nơi Thiên Chúa; mà Đức Giêsu dạy rằng phải nhận ra và yêu mến Ngài như một người Cha. Sự nghèo khó tinh thần chính là chấp nhận từ thẳm sâu lòng mình rằng sự sống là quà tặng thường xuyên của người Cha này. Thiên Chúa không cần lời khen ngợi, Ngài tự hiến một cách vô vị lợi: đó chính là nguồn mạch sự khiêm nhường Kitô giáo. Sự khiêm nhường triệt để này tạo nên phẩm giá của một con người và của tất cả mọi người. Thật vậy, phẩm giá này không dựa trên sự giàu có cũng như những đức tính nhân bản, nhưng dựa trên tình yêu mà Thiên Chúa dành cho mỗi người, nhất là người nghèo. Chính đây là trọng tâm của Tin Mừng vĩnh cửu”.

* “Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được đất hứa làm gia nghiệp”. Mối phúc thứ hai này nối dài mối phúc trên từ một câu Thánh Vịnh 36: “Những ai hiền lành sẽ chiếm hữu trái đất và sẽ hưởng một nền hòa bình sung mãn”. J. Potel nói tiếp: “Sự hiền lành là hoa trái của sự khó nghèo. Người nghèo thì không có phương tiện thể lý hay pháp lý bảo vệ mình. Vậy phải chăng người nghèo hoàn toàn trơ trọi trước những người không nhìn nhận quyền của mình? Không, vũ khí của họ chính là sự hiền lành, sự nhẫn nại, sự tín nhiệm vào Thiên Chúa. Sự chiến thắng vĩnh viễn không đến từ võ lực. Ngày nay người ta gọi nó là kết quả của sự không dùng bạo lực”.

* “Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an”. Tận đáy sâu của nỗi tuyệt vọng, người tín hữu vẫn thấy ánh lên một niềm hy vọng: “Tia hy vọng này là khuôn mặt của Thiên Chúa. Ngài đến gần để an ủi người đắm chìm trong cơn thử thách”.

* “Phúc thay ai khao khát nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng”. Rảo qua toàn bộ Kinh Thánh, Sự công chính ở mối phúc thứ bốn được hiểu là “tự điều chỉnh” tâm hồn và thái độ theo cách thế Thiên Chúa đã làm. Thiên Chúa ở đây là Đấng đã đến để gặp gỡ con người và nối kết với họ bằng giao ước. Như vậy ‘trọn đời mình, người Kitô hữu tìm cách đáp ứng những đòi hỏi tinh thần và luân lý do giao ước này đề ra bằng cách thực hiện “sự công chính” đối với Thiên Chúa và đối với đồng loại’.

  1. Bn mi phúc sau hướng đến thái độ đặc trưng ca người môn đệ Đức Kitô

* “Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương”. Khi chiêm ngắm cách Thiên Chúa, Đấng nhân từ và xót thương cư xử với ta, người môn đệ của Đức Kitô học biết tha thứ những xúc phạm và trợ giúp anh em mình sống trong cảnh tuyệt vọng.

* “Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa”. Sự trong sạch ở đây không có liên quan trực tiếp đến tình dục. Nó cũng không phải là sự chính trực, sự không giả dối, sự đi đôi giữa nói và làm. Sự trong sạch đây là con đường hợp nhất với Thiên Chúa.

* “Phúc thay ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa”. Jean Potel giải thích: “Đối với Đức Giêsu, sống hòa bình bằng cách rèn luyện một đời sống hòa hợp và an lành không đủ, Ngài đòi một đức ái tích cực, nhất là khi không có hòa bình trong gia đình, nơi cộng đoàn Kitô hữu. Hòa bình sẽ được gọi không có biên giới cũng như tình yêu Thiên Chúa không có giới hạn. Những người xây dựng hoà bình là con Thiên Chúa: dĩ nhiên nhiệm vụ của con là tiếp tục công việc của Cha mình, mà điều Cha trên trời muốn là đem hoà bình đến cho con người”.

* “Phúc thay ai bị bách hại vì sự công chính, vì Nước Trời là của họ”. Trung thành tuân giữ giáo huấn của Đức Kitô như trong các mối phúc không phải là không có những hiểu lầm, những đối nghịch, những bách hại, vì những giá trị Nước Trời đi ngược lại với những giá trị thường được đề cao như những tiêu chuẩn cuộc sống. Đối với Đức Giêsu, những môn đệ bị bách hại của Ngài là những người nghèo thật sự của mối phúc thứ nhất. Họ chỉ có lời hứa Nước Trời cho những khổ đau họ gánh chịu.

Tất cả các mối phúc đều vẽ lên một khuôn mặt, đó là khuôn mặt của Đức Giêsu. Jean Potel kết luận: “Đức Giêsu hân hoan đón nhận Nước Trời mà Ngài hết lòng chờ đợi và đã hoàn toàn dấn thân vì Nước Trời ấy. Cuộc đời, lời nói, hành vi của Ngài đều biểu lộ nơi Ngài một con người nghèo hèn, hiền lành, thương xót, trong sạch, kiến tạo hòa bình; một người chỉ sống vì Nước Trời đang đến, vì triều đại của Đấng mà các môn đệ Ngài sẽ cầu khẩn khi gọi là Cha”.

 

29. Tám mối Phúc Thật

(Suy niệm của Lm. Thu Băng, CRM)

  1. Hạnh phúc theo ý nghĩ loài người:

Loài người tượng hình cho việc mất hạnh phúc bằng trái tim có mũi tên xuyên qua. Và tượng hình cho hạnh phúc bằng trái tim có đôi cánh bay bổng lên cao. Trong thần thoại Việt Nam tượng trưng cho niềm hạnh phúc bằng 3 vị thần: phúc lộc thọ gọi là tam đa.

Thần thọ: râu tóc bạc phơ, tay phải chống gậy cong queo, tay trái cầm trái đào tiên thường đi với con rùa, một con vật sống dai nhất tượng trưng cho đường trường thọ.

Thần lộc: Cưỡi nai, tượng trưng cho niêm an vui thư thái, quan cách.

Thần phúc: Đi đâu cũng có mấy chú giơi theo hầu, tượng trưng cho giầu sang, phú quý. Ai muốn được hạnh phúc thì cố gắng đạp thằng bần ra khỏi cửa, giang tay mời ông phúc bước vào nhà.

Người Lamã thời Chúa Giêsu cũng không khác thời nay, họ đo lường hạnh phúc bằng giầu có vật chất, bằng khoái lạ, quyền thế, bằng thảnh thơi an nhàn, cơm bưng nước rót.

  1. Hạnh phúc theo Phúc Âm:

Nhưng giờ đây theo quan niệm mới, Chúa cho chúng ta một mực thuớc mới để đo giá trị qua bản hiến chương nước trời:

Ai có tinh thần nghèo khó mới chiếm được nước trời.

Ai hiền lành không hách dịch mới được người đời mến chuộng.

Ai đầy lòng trắc ẩn, cảm thương mới được an ủi.

Ai khát sống công chính mới được no thỏa.

Ai nhân từ, xót thương người ta mới được thương lại.

Ai trinh tâm mới được thấy Chúa.

Ai thuận hòa mới được làm con Chúa.

Ai vui chịu sự khó mới được nước trời.

Chúa chọn những cái người đời cho là đê hèn: nghèo là thằng bần. Thương người là ngu. Hiền là cù lần. Trinh tâm là lạc hậu. Chịu khó là ham… Để làm cho người nhận là lớn phải hổ thẹn. Điều đó đã trở thành sự thật.

Nhà triệu phú Paul Getty chết năm 1976 đã nói trước khi chết: “Cả đời tôi chẳng được hạnh phúc.” Trái lại Lazarô, người hành khất được lĩnh hạnh phúc nước trời. Ông Diogènô được mệnh danh là người hạnh phúc trên đời. Ông sống trong một cái thùng lớn, nằm đọc sách triết, vua Hy Lạp nghe danh đến thăm ông và muốn ban cho cái ông cần thiết. Hỏi tới lần thứ hai ông không thèm trả lời, vua tưởng ông không nghe thấy, vua ghé sát vào lỗ thủng hỏi lại, ông trả lời “Hạ thần muốn xin bệ hạ một điều là bệ hạ tránh ra để hạ thần có ánh sáng mà đọc sách.” Ông đã đuổi khéo nhà vua vì vua đã sa vào vòng danh lợi để mất niềm vui thảnh thơi của cuộc sống.

Cái hạnh phúc của ông là từ bỏ, gác ngoài tai danh lợi và quyền thế.

Một hôm hoàn tử Ba Tư đi săn trong rừng cho khuêy khoả nỗi buồn vỉ mất người yêu. Hoàng Tử nghe thấy tiếng hát thánh thót nơi rừng thẳm, hoàng Tử tiến lại xem thì một người cùi đang nằm hát trong đống bầy ngầy thối rữa. Hạnh phúc của người này là chấp nhận thánh ý an bài của Chúa, dù gặp lúc vui hay lúc buồn.

Cha Daniêng tông đồ người hủi. Đức cha Cassege từ bỏ ngôi vị giám mục đi sống phục vụ người miền thượng Di Linh. Trước khi chết ngài nói: “Đời tôi không được dài để phục vụ nữa”. Hạnh phúc của ngài là hy sinh, thương xót, vui chịu sự khó, thực hiện lòng trắc ẩn.

Chức phận của ông tổng thống, của ông bộ trưởng, tỉnh trưởng chưa chắc vui bằng mấy ông bà già ngày ngày cầu kinh, hy sinh với nếp sống cứu các linh hồn.

  1. Chúng ta có thực hiện được bản hiến chương nước trời hay không trong chức vụ hiện tại của mình?

Đây là phần trả lời của mỗi người chúng ta. Chúa không buộc chúng ta bỏ, nhưng Chúa đòi chúng ta cố gắng quan tâm. Giầu có nhưng có lòng quảng tâm. Có địa vị nhưng thực hành hiền lành không hống hách.. Sống giữa đam mê nhưng lòng trinh tâm, không tranh dành, chớp cơ hội để sống hiền hòa.

Tám mối phúc thật là đường lối mới Chúa ban để hướng dẫn chúng ta hướng lên cao. Hãy cố gắng thực hiện trong mọi lãnh vực sống.

 

30. Hạnh phúc thật

Khi đứa trẻ vừa được sinh ra thì việc làm đầu tiên là khóc. Nên người ta gọi là cất tiếng khóc chào đời. Tiếng khóc là báo hiệu cho cuộc đời sẽ gặp khó khăn và gian khổ. Vì thế mà Phật giáo nói “đời là bể khổ”. Cho nên trong cuộc sống con người luôn đi tìm hạnh phúc để tránh đau khổ. Thế nhưng họ vẫn không có được hạnh phúc thực sự mà vẫn gặp đau khổ.

Vậy hạnh phúc thật là gì? Đó là chủ đề mà tôi muốn chia sẻ hôm nay.

Người ta thường nghĩ hạnh phúc là: giàu có, thành đạt, mạnh khoẻ… Đối với mỗi người thiếu nhi đó là: quần áo đẹp, đồ chơi, bánh ăn, chơi games, được khen ngợi… Nhưng trong thực tế những điều trên chưa chắc đã mang lại hạnh phúc cho con người, bởi người ta nói người giàu cũng khóc là thế.

Theo định nghĩa: Hạnh phúc là sống đúng bản chất của mình. Chẳng hạn như: Con chim chỉ hạnh phúc khi được bay nhảy thoải mái như chim, dù nó có được sống trong lồng vàng đi nữa vẫn không hạnh phúc; hay con cá chỉ hạnh phúc khi được bơi lội tự do như cá. Như thế còn con người thì sao? Bản chất của con người là được Thiên Chúa tạo dựng, nên con người chỉ hạnh phúc khi được trở về với cội nguồn của mình là chính Thiên Chúa. Có nghĩa là được thông phần bản tính với Thiên Chúa (2 Pr 1,4) và sự sống đời đời (x. Ga 17,3). Để có hạnh phúc thật thì mỗi người chúng ta phải sống 8 mối phúc này hay còn gọi là bản hiến chương Nước Trời.

Có thể nói mối phúc thứ nhất là ý chính của bản hiến chương này. Đó là “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ”.

Câu hỏi đặt ra là tại sao Chúa Giêsu lại nói nghèo là phúc? Đúng ra nghèo là điều vô phúc hay bất hạnh mới phải chứ! Thưa ý Chúa Giêsu nói tinh thần nghèo khó đây được hiểu theo 2 nghĩa:

Thứ nhất khi có tâm hồn nghèo khó thì ta không bám víu vào vật chất hay không bị ảnh hưởng bởi cuộc sống ở trần gian này. Như tiền tài, danh vọng hay lạc thú… Như trong câu chuyện “Người thanh niên có nhiều của cải” trong Tin Mừng theo thánh Matthêu kể lại: sau khi anh ta đã thực hành đầy đủ những gì Chúa Giêsu yêu cầu đó là yêu Chúa hết lòng và yêu tha nhân như chính mình là điều rất tuyệt vời, thế nhưng khi Chúa Giêsu yêu cầu anh ta đi thêm một bước nữa là bán hết tài sản để cho người nghèo thì anh ta liền quay mặt bỏ đi (x. Mt 16, 19-22). Rõ ràng anh ta còn bám víu vào vật chất mà chưa có chọn Chúa.

Đối với mỗi người chúng ta thì sao? Khi không bám víu vào những gì ở trần gian đó là sống đơn sơ, giản dị và khiêm tốn. Như khi ở trong gia đình giàu có hay giỏi giang hơn các bạn thì cũng không kiêu căng, tự mãn, đua đòi, hơn thua hay coi thường các bạn nghèo khổ và dở hơn mình; ngược lại dù phải ở trong gia đình nghèo khổ hay kem cỏi hơn các bạn thì cũng không mặc cảm, tủi thân, đòi hỏi và trách móc cha mẹ. Đó là những biểu hiện ta đang sống tinh thần nghèo khó.

Thứ hai khi ý thức sống tinh thần nghèo khó là như thế thì ta sẽ đi tìm Chúa, thực hành Lời Chúa và luôn phó thác vào Chúa. Như trong đoạn Phúc Âm theo thánh Luca nói về “hạnh phúc thật sự” kể lại: khi Chúa Giêsu đang rao giảng thì có người phụ nữ thưa rằng: “Phúc thay người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm”. Vì bà nghĩ rằng một người mẹ có người con tài giỏi như vậy thì thật là có phúc. Nhưng Chúa Giêsu đã sửa ngay: “Đúng hơn phải nói rằng: Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa” (Lc 11, 28).

Tóm lại: để có hạnh phúc thật mỗi người luôn biết lắng nghe và thực hành lời Chúa. Nhất là không làm điều gì tội lỗi mất lòng Chúa. Có như thế chúng ta mới có được hạnh phúc thật như lời Chúa hứa trong bài Tin Mừng hôm nay: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ”. Amen.

 

31. Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó

(Suy niệm của Lm. Thiện Cẩm)

Phật Thích Ca mở đầu bài thuyết pháp đầu tiên tại Bê-na-rét bằng câu: “Vạn sự sự vô thường, vạn sự khổ”, nghĩa là mọi sự đổi thay không ngừng, nên mọi sự chỉ là khổ. Sinh, lão, bệnh, tử: Con người sinh ra để rồi già yếu, bệnh tật, và cuối phải chết. Rõ thật cuộc đời chỉ là bể khổ!

Năm trăm năm sau, Đức Kitô xuất hiện bên đất Pa-lét-tin, dõng dạc tuyên bố trong bài giảng đầu tiên: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ!” (Mt 5,3)

Một người mang tiếng là bi quan yếm thế, người kia lại bị coi như không tưởng, lạc quan quá cỡ. Một bên coi đời là bể khổ, còn một bên lại nhìn thấy màu hồng trong cái thanh bạch trống trơn.

Người ta đã tốn khá nhiều giấy mực và thời giờ sức lực để nghiên cứu, suy tư, bàn cãi về hai bài giảng đầu tiên của Đức Phật và của Đức Giêsu.. Đã có cả những luận án trình bày và so sánh hai bài giảng đó. Tuy nhiên có lẽ chẳng mấy ai hiểu được chính xác nội dung ý nghĩa của hai bài giảng có tính cách ngôn sứ ấy. Vì thực ra, cả Đức Phật lẫn Đức Kitô, đều không có chủ ý đề ra một lý thuyết về vấn đề hạnh phúc và đau khổ, mà chỉ chia sẻ cho anh em nhân loại của các Ngài chính kinh nghiệm sống của mình. Kinh nghiệm của Đức Phật là kinh nghiệm của một người đã đạt tới Chân Như, vượt ra ngoài thế giới vô thường của những đam mê mù quáng, của sự phân chia đối kháng; còn kinh nghiệm của Đức Kitô, là kinh nghiệm của một người thấy được sự tồn tại trong cái mất (x. Mt 10,39), và sự sống trong cái chết (x. Ga 12,24-25)

Đức Phật chỉ nói lên cái lý do, cái nguyên nhân làm cho người ta khổ, nhưng Người không bao giờ lên án cuộc đời, cho nó chỉ là bể khổ. Đức Kitô cũng không bảo rằng muốn hạnh phúc thì phải là kẻ khố rách áo ôm. Do đó, Matthêu đã có lý khi thêm ba chữ “có tâm hồn” vào trong câu nói của Chúa, để xác định cho rõ cái nghèo hèn nào mới thực sự đem lại hạnh phúc cho con người.

Trong cuộc đời, xưa cũng như ngày nay, vào thời con người còn ăn lông ở lỗ, cũng như trong thời ở khách sạn 5 sao, vẫn luôn luôn diễn ra những cảnh trái khoáy: nhiều người có đủ mọi điều kiện để hạnh phúc, mà thực tế lại đau khổ khôn lường, còn những kẻ xem ra bần cùng tăm tối, lại tràn trề hạnh phúc.

Thật ra ai cũng biết rằng nghèo khó không đương nhiên là khổ, đã đành rằng nghèo và khổ thường đi đôi với nhau. Trái lại, giàu có cũng không tất nhiên đem lại hạnh phúc cho con người. Vấn đề hạnh phúc chủ yếu ở cái TÂM. Bởi thế các bậc thánh hiền, bằng những ngôn ngữ khác nhau, nhưng hầu như đều luôn luôn nhất trí trong việc đề cao đời sống tâm linh.

Chính đó là lý do tại sao Đức Giêsu đề cao tâm hồn nghèo khó, hiền hậu, dám chấp nhận khổ đau, yêu thích sự chính trực, thương xót đồng loại, trong sạch, và biết xây dựng hòa bình. Thực ra tất cả những đức tính trên đây là những đức tính của “người nghèo của Thiên Chúa”, của một anawim, theo truyền thống Kinh thánh. Người nghèo của Thiên Chúa, không phải là người có đời sống vật chất khó khăn túng quẫn, mà là kẻ trước hết hoàn toàn tin tưởng phó thác cậy trông nơi Chúa, biết sống cho Người và cho anh em đồng loại của mình, lấy Chúa làm gia nghiệp, và luôn luôn sống trong tình liên đới với anh em đồng loại, thực thi điều răn trọng nhất là mến Chúa yêu Người.

Nói theo Đông phương chúng ta, thì hạnh phúc chủ yếu ở chỗ thực hiện được sự hòa điệu giữa lòng mình với lòng Trời, giữa lòng mình với lòng người, nghĩa là sống sao cho hợp lòng Trời và lấy lòng của trăm họ làm lòng mình, “dĩ bách tánh tâm vi tâm” (ĐĐK XLIX,1).

Theo truyền thống Ấn Độ nói chung và Phật giáo nói riêng, hạnh phúc là sukha, đó là tình trạng giống như tình trạng của một bánh xe, mà trong đó mọi sự ăn khớp với nhau: vành xe, ổ trục và các đũa xe đều tốt và nằm đúng vị trí, hòa hợp với các thành phần khác, do đó mà bánh xe chạy trơn tru. Còn đau khổ là dukha, đó là tình trạng một bánh xe trục trặc, vì có những thành phần hư hỏng hay không ăn khớp với những thành phần khác.

Nói tóm lại, không ai sướng khổ một mình hay chỉ tại mình, mà tất cả chúng ta liên đới và chịu trách nhiệm về hạnh phúc cũng như đau khổ của nhau. Vì thế mà trong Tám mối phúc thật, Đức Giêsu cho thấy hạnh phúc của chúng ta tùy thuộc vào mối tương quan ba chiều giữa chúng ta với Thiên Chúa, và giữa chúng ta với anh em đồng loại.

 

32. Hạnh phúc

(Suy niệm của Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long)

Hạnh phúc cần thiết cho đời sống mỗi người từ khi mở mắt chào đời cho tới khi nhắm mắt từ giã cuộc sống trần thế, ai củng mong muốn có hạnh phúc và ra công gắng sức để tìm hạnh phúc. Nhưng nếu hỏi hạnh phúc là gì, và làm thế nào để có được hạnh phúc? Có lẽ không mấy ai có thể cắt nghĩa cho rõ ràng được! Vì hạnh phúc không là điều đơn giản có thể thu tóm trong một định nghĩa hay một công thức, hay một bài viết. Hạnh phúc cũng không giống như chiếc áo, chiếc xe, hay cái nhà mà có thể vẽ ra thành hình hài có màu sắc, hay có thể mua sắm làm ra được.

Hạnh phúc là điều cảm thấy trong tâm hồn, trong cuộc sống, khi một biến cố, một lời nói cử chỉ mang lại niềm vui, mà họ chờ đợi từ lâu. Thí dụ, khi thi đỗ hay lam ăn phát đạt gặp dịp may, con cháu khỏe mạnh mau lớn, học hành giỏi giang, cước được người hằng mong ước, sang đoàn tụ với gia đình, được khen tặng tán thưởng, được khích lệ an ủi, thoát khỏi tai bay vạ gió, bình phục khỏe mạnh trở lại sau cơn bạo bệnh…

Trong Phúc âm, những người được Chúa chúc phúc, những người được gọi là hạnh phúc, lại có đời sống trái ngược. Họ phải gánh chịu cuộc sống đâu có gì sáng sủa mang lại hạnh phúc như chúng ta hiểu. Trái lại họ phải chịu phần thiệt thòi, sống hy sinh chịu đựng nhiều hơn là đàng khác! Tại sao Chúa lại gọi họ là những người có hạnh phúc? Phải chăng đó chỉ là những lời an ủi để họ bằng lòng với số phận “chịu vậy” cho xong?

“Phúc thay cho những ai có tâm hồn nghèo khó, vì nước trời là của họ” (Mt 5,3). Tất cả mọi người ai cũng cần có cuộc sống no đủ cơm ăn áo mặc, nhà ở, việc làm, cơ hội học hành thăng tiến cuộc sống cho xứng đáng nhân vị đời sống con người. Nhưng đời sống con người đâu chỉ gói trọn trong phạm vi bốn bức tường nhà ở của mình. Nó còn liên đới lan rộng và tùy thuộc với môi trường, với mọi người xung quanh nữa. Và đời sống con người đâu phải chỉ có nhu cầu cho thể xác, cho bao tử, cho sức khỏe, nhưng còn có nhu cầu thiêng liêng tinh thần nữa: Lòng tin tưởng biết ơn Đấng Tạo Hóa.

Người nghèo khó trong tâm hồn là người nhìn nhận Chúa là Cha đời mình và sống bác ái, chia sẻ với người xung quanh mình. Chính tình liên đới đó làm cho cuộc sống có ý nghĩa, có hạnh phúc.

Dưới con mắt của mọi người, những ai lâm cảnh hoạn nạn buồn sầu tủi khổ, họ là những người bất hạnh – Thử lòng trong đời đã có ai chưa một lần nào lâm cảnh này? – Nhưng đức tin dạy chúng ta: Thiên Chúa không bỏ họ một mình trong lúc sầu khổ, như Ngài đã hứa: “Con đừng sợ, trong cơn sầu khổ, Ta sẽ cứu độ con” (Is 43,1). Và trong hoàn cảnh bước đường cùng vẫn có những người anh chị em đồng loại sẵn sàng an ủi, giúp đỡ nhau. Điều này rất cần cho con người. Và chính điều này mang lại hạnh phúc cho cuộc sống.

Trong lúc gặp bước đường cùng khổ gian nan, mà biết có người cùng chia sẻ, cùng đồng hành với, sẽ cảm thấy được an ủi. Đời sống được an ủi, là đời sống có hạnh phúc.

Chúa chúc phúc cho những người có lòng nhân từ, lòng thông cảm với người khác (Mt 3,7-8). Có thể họ bị người đời cho là khờ dại hay “ăn cơm nhà, vác ngà voi hàng xóm”. Nhưng đâu phải như thế. Họ là những người kiến tạo hoà bình. Vì họ không lợi dụng người anh chị em mình lúc yếu thế sa cơ để kiếm lợi cho riêng mình như cảnh “dậu đổ bìm bịp leo!”, nhưng tìm cách tương trợ lẫn nhau “chị ngã em nâng”.

Họ là những người không tìm cách, tìm dịp xa gần nhục mạ bôi nhọ danh dự người khác. Lòng đạo đức nhân bản là nền tảng đời sống đức tin của họ, như lời Chúa dạy: Yêu thương, tha thứ cả kẻ bách hại các con (Mt 5,44).

Và trong đời sống, thiết tưởng ai cũng đã có kinh nghiệm quý báu này: Ngày hôm nay người này có thể là người thù địch, hay người không đồng ý kiến, tư tưởng với ta, nhưng ngày mai họ có thể sẽ trở thành bạn, người làm ơn cho ta! Nhà chí sĩ Nguyễn Trãi thuở xưa trên bình diện quốc gia dân tộc trong hịch Bình Ngô Đại Cáo đã kêu gọi: “Lấy chí nhân thay cường bạo!” làm nền móng xây dựng hòa bình cho xã hội, kiến tạo tình người, bắc chiếc cầu thông cảm tha thứ làm hoà với nhau.

Những người được Chúa chúc phúc, được Chúa hứa cho đời sống hạnh phúc là những ai? Họ là những người tin theo Chúa, sống rao giảng tình yêu Chúa, tình yêu bác ái tha thứ, thắp sáng niềm hy vọng cho mọi người bằng chính đời sống mình trong môi trường họ sinh sống.

Qua đời sống như thế “Danh Chúa được cả sáng và Nước Chúa trị đến”. Và người khác tìm thấy niềm vui hạnh phúc cho tâm hồn khi nhận ra tình yêu thương, tương trợ nhau.

 

33. Chúa là phúc thật – Lm. Phạm Quốc Hưng

“Hãy vui sướng và hân hoan, vì phần thưởng các ngươi lớn thật ở trên trời”.

Người Ái Nhĩ Lan có một câu nói diễn tả lòng tự hào dân tộc của họ như sau: “Trên thế giới chỉ có hai loại người: những người Ái Nhĩ Lan và những người muốn trở thành người Ái Nhĩ Lan”. Là người Việt Nam và cảm thấy tự hào về truyền thống anh hùng của Việt tộc, dĩ nhiên tôi không chấp nhận câu nói trên. Nhưng tôi cũng không dám sửa câu đó thành: “Trên thế giới chỉ có hai loại người: những người Việt Nam và những người muốn trở thành người Việt Nam.” Vì tôi biết có những người không muốn nhận mình là người Việt Nam dù đã sinh ra trên quê hương Việt Nam và mang trong mình dòng máu Lạc Hồng.

Dù vậy, tôi không sợ lầm khi sửa câu trên thành: “Trên thế giới chỉ có hai loại người: những con người hạnh phúc và những con người không được hay chưa được hạnh phúc”. Vì không có một người bình thường nào mà không mong mỏi khát khao hạnh phúc. Hạnh phúc viên mãn hay hạnh phúc đích thực bao giờ cũng là đối tượng tìm kiếm của trái tim nhân loại.

Nhưng làm thế nào để đạt được hạnh phúc?

Ai cũng mong muốn hạnh phúc, nhưng những quan niệm của con người về hạnh phúc, về cách thức để đạt được hạnh phúc thì thật khác nhau. Có người quan niệm hạnh phúc là có sức khỏe, nhan sắc, bạc tiền, tài năng, của cải, địa vị, học thức, và gia đình êm ấm thuận hoà. Người khác lại cho rằng hạnh phúc là được nhiều người ái mộ, làm được nhiều điều hữu ích cho xã hội, được đi vào lịch sử như những người hùng của nhân loại. Người khác nữa lại quan niệm hạnh phúc là phải từ bỏ mọi sự phiền toái của cuộc sống xã hội, sống ẩn dật như một loài thú đi hoang.

Trong Tin mừng hôm nya, Chúa Giêsu đã đưa ra những quy luật bất biến – chứ không phải một quan niệm vu vơ – để đạt đến hạnh phúc thực như con người hằng mong ước. Theo Ngài, những người hạnh phúc là

những người có tinh thần nghèo khó,

những người hiền lành,

những người ưu phiền,

những người đói khác sự công chính,

những người biết thương xót,

nhưng người tinh sạch trong lòng,

những người tác tạo hòa bình,

và những người bị bách bớ vì sự công chính.

Là Thiên Chúa và là Đấng tạo dựng nên chúng ta, Chúa Giêsu hiểu biết ta hơn là ta hiểu biết về chính mình. Ngài biết ta phải sống thế nào để đạt được hạnh phúc đích thực, nên Ngài đã chỉ cho ta biết những quy luật hạnh phúc trên. Nhưng điều này xem ra nghịch hẳn với quan niệm thông thường của con người về hạnh phúc. Nhưng đó là những chân lý không thể sai lầm.

Làm sao chúng ta biết được đây là những quy luật hạnh phúc chân thực nhất xưa nay? Vì những quy luật này đã được thể hiện nơi chính con người của Chúa Giêsu. Ngài đã sống trước khi giảng dạy chúng ta những điều ấy.

Thật vậy, nơi Chúa Giêsu chúng ta gặp thấy hiện thân của chính đức khó nghèo, chính sự hiền lành, chính sự ưu phiền, chính cơn đói khát công chính, chính lòng xót thương, chính lòng tinh sạch, chính sự hòa bình, và chính sự công chính đang bị bách bớ. Ngài là mẫu mực của tất cả những ai mà Ngài nhìn nhận là có phúc.

Nói cách khác, những quy luật trên sở dĩ gọi là những quy luật hạnh phúc bất biến vì chúng giúp người ta nên giống Chúa Giêsu và nên một với Ngài là Thiên Chúa làm người. Theo ngôn ngữ của thánh Phaolô, chúng là những phương thức giúp ta “mặc lấy Chúa Kitô” và trở nên nên “đồng hình đồng dạng” với Người. Những quy luật này giúp chúng ta noi gương Chúa Giêsu, cắm sâu chôn chặt vào Thiên Chúa như nguồn hạnh phúc duy nhất của mình và sẵn sàng thoát ly tất cả những gì không phải là Chúa. Chúng sẽ giúp chúng ta thưa cùng Chúa những lời của Thánh vịnh gia:

“Tôi thưa cùng Yavê: Chính Người là Chúa của tôi, hạnh phúc của tôi, có đâu ngoài Người…

Yavê là phần cơ nghiệp, là chén của tôi,

chính Người là Đấng nắm giữ cơ đồ cho tôi!

Giây đo phần tôi rơi nhằm nơi tuyệt mỹ,

cơ nghiệp ấy làm cho tôi sung sướng!”

(Tv 16:2 & 5-6)

Điều quan trọng ở đây là chúng ta có dám dấn thân sống theo những quy luật hạnh phúc này hay không?

Sở dĩ cuộc đời chúng ta còn buồn tẻ chán chường, còn “sà sà mặt đất”, còn chưa được thăng hoa là vì chúng ta chưa dám thực hành những điều mà miệng ta nhìn nhận là chân là thiện. Cũng chính vì thế mà ta chưa cảm nếm được sự ngọt ngào và sức mạnh của Lời Chúa. Đúng như tác giả sách Gương Chúa Giêsu nhận xét: “Sở dĩ nhiều người nghe giảng Phúc âm luôn mà vẫn không xúc động, là vì họ không có tinh thần Chúa Kitô. Muốn hiểu tỏ và nếm thử thi vị của Lời Chúa, cần phải tập sống đời sống của Chúa” (GCG Q.1 Ch. 1).

Trong quá trình phong thánh của Giáo hội, các vị á thánh là những người bắt đầu được dân chúng tôn kính nơi công cộng còn được gọi là những “chân phúc”, những con người được phúc thật, được phần thưởng thiên đàng, được sống đời đời. Lý do Giáo hội tôn phong các ngài là vì Giáo hội nhận thấy nơi các ngài là hình ảnh của chính Chúa Giêsu là Nguồn mọi sự thánh, thấy sự hiện diện của chính Chúa nơi cuộc đời các ngài. Phần phúc của các ngài cũng là phần phúc được Chúa hứa ban cho mỗi tín hữu chúng ta.

Cuối cùng rồi thì nhân loại vẫn được chia thành hai loại như những con chiên lạc được tách khỏi đám dê trong bài giảng về ngày phán xét cùng tận (Mt 25:31-46): những người được phúc thật là những người mang hình ảnh Chúa Giêsu vì đã nổ lực sống thánh thiện noi gương Người và nhưng người đã tự khước từ phúc thật đời đời vì đã chối bỏ lời mời gọi sống thánh theo gương Chúa Giêsu khi còn ở trần gian và đã đánh mất hình ảnh Thiên Chúa nơi mình bằng lối sống đắm chìm trong tội.

Với lời mời gọi của Chúa Kitô, với sự trợ giúp của Ơn Chúa, với sự thúc bách của Chúa Thánh Thần, với gương sáng và lời chuyển cầu của Mẹ Maria và chư thánh, chúng ta còn ngần ngại gì mà chưa nỗ lực sống thánh để đạt được phúc thật?

 

34. Đức Giêsu công bố cẩm nang hạnh phúc

Người ta khao khát hạnh phúc, chúc nhau trăm năm hạnh phúc, tam đa, tam phước… nhưng không biết làm sao để được hạnh phúc thật nên không thấy bóng dáng hạnh phúc ở đâu, vùi đầu chạy tìm ảo ảnh mà họ tưởng là hạnh phúc. Họ như những con thiêu thân “thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt”, mà để lại “buồn da diết đến nghìn thu”. Họ tìm ba T “tài-tiền-tình” Nhưng thực tế đó lại là những thứ vũ khí giết người, và gây đau khổ mà thôi. Nước mắt nhiều hơn nụ cười. Không biết cười hay mếu!

Trước thềm năm mới – tống cựu nghin tân – Đức Giêsu trao cho chúng ta “CẨM NANG HẠNH PHÚC”: NƯỚC TRỜI (THIÊN CHÚA) LÀ CỦA HỌ. Thiên Chúa là hạnh phúc. Vấn đề là tin hay không!

Tìm kiếm những gì dẫn đến Thiên Chúa là có hạnh phúc. Từ bỏ những gì làm xa cách Thiên Chúa. Gọi là các mối phúc thật. Phải là chín mới trọn vẹn.

Trước khi giải thích bản văn chúng ta nên lưu ý: Phúc Âm là các thánh sử giải thích “biến cố” Đức Giêsu mỗi người theo một sơ đồ riêng để minh họa một ý tưởng thần học về chương trình cứu độ đã được tiên báo trong Cựu Ước và được thực hiện qua biến cố Đức Giêsu. Không phải là những bài tường thuật hay trình thuật như thường hiểu. Các mối phúc thật cũng vậy, là những “dàn dựng” của Mt hoặc Lc lấy từ biến cố Đức Giêsu và được linh ứng để viết ra cho chúng ta là những đọc giả về sau.

1/ Phúc thật ai có tâm hồn nghèo khó vì nước trời là của họ: Tâm hồn nghèo khó. Bất kể giàu nghèo, có tâm hồn nghèo khó là phúc thật. Tâm hồn là tấm lòng, trong lòng không đầy ứ sự tham lam của cải thế gian. Không có mà không ham, không tham. Không “bần cùng sinh đạo tặc”, không “bụng đói thì gối phải bò” đi trộm cắp, cướp của giết người. Nghèo mà vẫn công chính. Giàu có mà lòng không ỉ lại tiền của, biết coi như không có mà đem làm việc yêu thương thay cho Thiên Chúa để xoa dịu những kẻ đau khổ vì túng thiếu. Đem hết cho Chuá ăn, cho Chúa uống…..

Người nghèo khó trong Cựu Ước cũng như Tân Ước là đối tượng chính được Thiên Chúa quan tâm. Đời nầy không có gì thì (trên trời) Thiên Chúa sẽ thưởng gắp bội vì phần thưởng sẽ lớn lao trên trời: là Nước Trời, là chinh Thiên Chúa. Đáng lẽ phải đi liền theo mối phúc của người nghèo là hai mối phúc của kẻ ưu phiền (Lc: khóc lóc) và đói khát. Nghèo thì khổ. Nghèo khổ.

2/ Phúc thật ai “Ưu phiền” (khóc lóc) vì họ sẽ được an ủi: nghèo thì gặp trăm ngàn sự khó vì trăm tội đổ trên đầu thằng khó. Cơm ăn là suối lệ chứa chan. Khổ! Đức Giêsu đến để an ủi những kẻ ưu phiền. Người đang đến, đang hiện diện. Người công bố. Được Thiên Chúa an ủi thí chắc chắn hết ưu sầu.

3/ Phúc thật những ai đói khát sự công chính vì họ sẽ được thỏa lòng. Mt muốn xác định rõ: đói khát mà công chính thì Thiên Chúa mới chúc phúc (chứ không phải mọi kẻ đói khát). Nghèo thì lắm phen đói khát. Nhưng không phải “bụng đói thì gối phải bò”, “bần cùng sinh đạo tặc” mà là “bần tiện bất năng di” (dù bần cùng cách mấy vẫn giữ mình là quân tử).

Phần thưởng lớn lao trên trời: vì Nuớc Trời là của họ. Thiên Chúa là phần gia nghiệp: không còn khổ “ưu phiền hoặc khó lóc”

Ba phúc thật nầy là khía cạnh tiêu cực: thực tế là vậy. Chỉ mới nói “chịu đựng”.

Các phúc thật còn lại đề cập đến khía cạnh tích cực “làm”.

4/ Phúc thật ai hiền lành vì sẽ đuợc đất hứa làm gia nghiệp: Hiền như củ khoai. Lành là vô hại, không độc. Hiền lành như bồ câu. Kẻ hiền phải chịu nhiều thiệt thòi có khi xem ra quá sức chịu đựng nữa. Lành thì không lúc nào có chút ác ý. Là một nhân đức ít có. Thiên Chúa hứa đền bù những gì họ chịu mất mát, thiệt thòi: họ sẽ được Nước trời.

5/ Phúc thật ai có lòng thương xót vì họ sẽ được xót thương: là biết động lòng trước dù là một bất hạnh nhỏ của nguời khác và ra tay cứu giúp ngay. Thuơng xót là biết hành động trợ giúp không thờ ơ, vô tình, bỏ qua trước hoàn cảnh khó khăn của kẻ khác. Đức Giêsu đến để tỏ lòng thương xót của Thiên Chúa.

6/ Phúc thật ai có tâm hồn trong sạch vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa: là giữ mình khỏi mọi cám dỗ của thế gian làm ô uế tâm hồn. Hạnh phúc thật được thần học gọi là visio beatifica “thấy Thiên Chúa” sẽ làm thỏa mãn mọi ước muốn của con người. Muốn thấy được Thiên Chúa thì phải giữ mắt không bị vật gì che chắn. Sạch tội. Tội là vật cản giữa con người và Thiên Chúa. Tội ở trong tâm hồn nên nói tâm hồn trong sạch được xem thấy Thiên Chúa.

7/ Phúc thật ai xây dựng hòa bình vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa: Nói hòa bình là chuyện lớn còn với mợi người trong đời sống hằng ngày là sống hòa thuận, thông cảm, chia ngọt xẻ bùi với nhau cho vui vẻ cả làng. Có nhiều người như vậy thì có hòa bình lớn. Còn nếu trong lòng còn những tham lam, tranh giành, lấn cấn… thì đừng nói chuyện hòa bình. Nếu tất cả là anh em, là con Thiên Chúa thì có hòa bình. Là con Thiên Chúa mới sống hòa thuận thương yêu nhau. Là con Thiên Chúa thì ở gần và thấy Thiên Chúa: Hạnh phúc thật.

8/ Phúc thật ai bị bách hại vì sự công chính ví nước trời là của họ: Chỉ người công chính mới được phúc của Thiên Chúa. Như Đức Giêsu thà chết chứ không thỏa hiệp để yên thân theo kiểu khôn ngoan thế gian, không đánh mất sự công chính vì bất cứ lý do nào vì công chính mới được thưởng. Phần thưởng Nước Thiên Chúa đóng khung các mối phúc từ 1 đến 8 nói lên phần thuởng duy nhất là Thiên Chúa. Thiên Chúa là phúc thật. Hãy tìm Thiên Chúa bằng 8 cách kể trên. Tám mối phúc thật là 8 “bí quyết” của cẩm nang hạnh phúc do Đức Giêsu công bố (cũng là Thiên Chúa công bố).

9/ Phúc thật cho anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa: Mối phúc nầy phân biệt với 8 mối phúc trên, đặc biệt hơn là “vì thầy”. Số 8 nói bách hại vì sự công chính. Số 9 là vì Thầy, là tử đạo. Vì Thầy, vì Phúc Âm thì giá trị lớn vô cùng, một bát nước lả cũng không mất phần thưởng đâu. Là điều kiện tốt nhất, bảo đảm nhất để được phúc thật là Nước Trời, là Thiên Chúa. Mất mát, thiệt thòi của 8 phúc trên là ít nhiều, là từng phần. Còn số 9 là tất cả ví liều mạng sống vì Thầy và vì Phúc Âm thì sẽ giữ được mạng sống mình cho tới đời đời “trên trời”. Là con đường thẳng, ngắn nhất “lên thiên đàng ngay” tức khắc. Là phúc thật tử vì đạo.

Số chín là hoàn hảo. Mt muốn cho đủ chín. Nhưng mỗi mối phúc đều có nội dung riêng rõ ràng.

Anh em hãy vui mừng vì phần thưởng dành cho anh em trên trời sẽ lớn lao. Chính Đức Giêsu là Phúc thật cho những ngưới anh em của mình. Những người không là anh em của Đức Giêsu thì không tin không theo không làm như Người day thì khống thể có phúc. Không có ban nhưng không như nguời ta thường thích nói để khỏi phải làm (thực tế thì không có).

Hạnh phúc trên trời không phải đợi dời sau mà trên trời có nghĩa là chính Thiên Chúa, là được chính Thiên Chúa hay như thần học định nghĩa hạnhphúc là “visio beatifica”, là thấy Thiên Chúa hay như khi Phêrô thấy Đức Giêsu biến hình vinh quang thì đã thốt lên trong cơn hốt hoảng “Lạy Thầy ở đây thì tốt lắm.”

Cuối năm, tống cựu nghinh tân, chúng ta hãy đổi mới cách nhìn và hiểu biết nhất là với Lời Chúa, cụ thể là các mối phuc đề biết hạnh phúc là gì, tìm ở đâu. Đức Giêsu đã đến, đã trao cho chúng ta cẩm nang hạnh phúc thật. Lời Chúa là chân thật. Chúng ta cố gắng hiểu để tin và làm theo thì sẽ được hạnh phúc thật là ở với Chúa, thấy Chúa ngay trong đời sống nầy.

 

35. Phúc thật, phúc giả – Lm. Bùi Quang Tuấn

“Bài Giảng Trên Núi” hay “Hiến Chương Nước Trời” là bản tổng hợp xúc tích nhất của Tin mừng Đức Kitô. Và “Tám Mối Phút Thật” chính là nền tảng căn bản nhất của “Bài Giảng Trên Núi” đó.

Thế nhưng không tránh khỏi một câu hỏi đầy tính hiện sinh: làm sao nghèo hèn, hiền từ, ưu phiền, đói khát, bị bắt bớ…mà lại có phúc được? Phải chăng Đức Giêsu đang ru ngủ hạng bần cùng khốn khó, như Marx có lần tuyên bố: Kitô giáo biện chứng cho sự nghèo đói của nhân loại và làm lụn bại tinh thần đấu tranh vượt thoát áp bức. Phải chăng là như thế?

Dựa vào đâu để khẳng định nghèo khó, ưu phiền, đau khổ là có phúc, đang khi thực tế lại như những “vô phúc” đáng loại trừ?

Một nhà tư tưởng đã có lý khi nhận định: ấy là dựa vào con người của Đức Giêsu, vì Ngài chính là hiện thân của khó nghèo, hiền lành, lắng lo, khát khao, thương xót, tinh tuyền, hoà bình, và khốn khổ vì công chính.

Không phải bởi lâm vào tình cảnh bế tắc nên Ngài phải chịu vậy, song đây là một sự tự nguyện chọn lựa để làm nên mẫu gương ân phúc cho con người. Ví dụ, có lần ma quỉ đến nói với Đức Giêsu: “Nếu ông cúi mình bái lạy tôi thì tất cả vinh quang giàu sang của thế gian sẽ thuộc về ông”. Như vậy Chúa Giêsu có khả năng để nên giàu có, và giàu có lắm, vì được cả thế gian chứ không phải thường. Nhưng Ngài từ chối bái lạy “cha của bọn dối trá”.

Hay sau khi hóa bánh cho dân chúng ăn no, Chúa Giêsu được người ta tôn vinh làm vua. Khi làm vua, chắc là sẽ sung sướng và cao sang hơn người. Ấy thế mà Kinh thánh lại nói: “Ngài trốn lên núi”. Tại sao trốn? Phải chăng Đức Giêsu muốn khẳng định một điều: giá trị cao quí và cần thiết vô cùng không ở nơi của cải, cao sang, sức mạnh, chức quyền nhưng là nơi Thiên Chúa. Ai chọn lựa Thiên Chúa, ai đặt trọn niềm tin tưởng nơi Ngài chính là người có phúc nhất. Thánh vịnh đã xác nhận điều đó khi nói: “Phúc thay người đặt niềm tin tưởng nơi Chúa”. Vì sao? Vì khi đặt niềm tin tưởng như thế:

“Họ như cây trồng bên suối nước,

Trổ sinh hoa trái đúng mùa

Lá cây không bao giờ tàn úa

Tất cả công việc họ làm đều thịnh đạt”.

Thịnh đạt trong mọi công việc chính là phần phúc dành cho những ai chọn Thiên Chúa làm lẽ sống và con đường ngay thẳng của Tin mừng để bước đi, dù rằng nẻo đường đó không thiếu chật hẹp, gian nan, đau khổ và rướm máu. Thế nhưng có bước theo Chúa và gắng nên giống Ngài mới là phúc thật, còn ngược lại, thì dù được xem như thành công, giàu có, hạnh phúc, an lành, người ta vẫn là những kẻ vô phúc trong thiên hạ.

Mới đây, làng điện ảnh Hollywood thường đề cập đến nữ minh tinh Demi Moore, người rất được khán giả Hoa kỳ ái mộ, và cũng từng là vợ của Bruce Willis, một tài tử danh tiếng khác.

Nổi tiếng và giàu có, nhưng Demi lại đang sống trong tình trạnh mặc cảm, lo sợ, hối hận dày vò. Số là trước khi bước chân vào nghề điện ảnh, Demi đã làm một nghề tồi bại: cho chụp hình playboy thân xác của mình.

Mặc dầu đã tốn khá nhiều tiền mua lại các phim gốc, hầu xóa bỏ dấu tích của một thời thiếu đoan trang, Demi vẫn mang trong mình nỗi bất an lo sợ. Vì hiện nay đang có dấu hiệu xuất hiện các hình ảnh xấu xa của cô trên Internet.

Demi lo cho danh dự của mình một phần, nhưng nguy hiểm hơn, cô đang sợ một ngày kia, ba đức con gái bé bỏng của cô là Rumer, Scout, và Talluah sẽ nhìn thấy các hình ảnh “không nết na” của mẹ chúng trên Internet, hoặc bị bạn bè bắt gặp và đem ra trêu chọc. Demi không muốn chứng kiến cảnh các con ngây thơ vô tội phải xấu hổ đau khổ vì mình. Cô tâm sự: “Giấc mơ lớn lao nhất của tôi là tìm mọi cách thu hồi những tấm ảnh playboy đó và ném vào một đống lửa cho cháy tiêu tan”. Demi cũng cho hay cô không kiêu hãnh chút nào khi có người khen cô đẹp vẹn toàn, bởi vì cô đã phạm một lỗi lầm rất lớn là để cho người ta chụp hình khỏa thân hầu sớm nổi danh và giàu có.

Thế đó, cứ tưởng vừa giàu sang có sang trọng, vừa xinh đẹp và được mến mộ thì hạnh phúc lắm. Nhưng sung sướng gì khi thâm tâm cứ bị dày xéo cắn rứt không nguôi.

Thử hỏi sống như thế là có phúc hay vô phúc? Thành ra có nhiều điều người ta tưởng “sướng lắm” hay “phúc lắm”, nhưng khi đạt được rồi mới thấy bức rức, hụt hẫng, dày vò, dơ nhớp… bởi vì nỗi khát khao háo hức không phải là công chính và thẳng ngay.

Như vậy, con người chỉ có phúc thật khi khao khát Thiên Chúa và sự công chính của Ngài. Con người chỉ có bình an và thoả lòng thật sự khi bước đi trên nẻo đường thập giá của Phúc âm. Và con người chỉ có thể vui cười chiến thắng khi can đảm chiến đấu và chiến thắng bao dục vọng đam mê thế trần.

Đường lên thiên đàng khi nào cũng nhỏ hẹp và vất vả hơn đường xuống hỏa ngục đầy bóng mát thênh thang. Nhưng can đảm chọn lựa bước theo Giêsu là đón nhận cho đời mình chính nguồn hạnh phúc chân thật và sự sống phong phú dồi dào.

 

36. Xây dựng hoà bình

“Kể từ ngày 11/9/2001, ngày toà tháp đôi Trung Tâm Thương Mại Thế Giới ở thành phố New York, Mỹ bị bọn khủng bố tấn công khiến cho khoảng 3000 chết cho đến nay, thế giới đã không có một phút nào yên. Thật vậy, trong suốt ba năm qua, mặc cho những cố gắng của các chính phủ, nạn khủng bố vẫn không ngừng gia tăng trên một diện rộng chưa từng thấy. Đó là vụ đánh bom đảo du lịch Bali (Inđônêxia) làm 202 người chết hồi tháng 2/2002, vụ đánh bon nhà ga xe lửa ở Madrid (Tây Ban Nha) hồi tháng 3/2004 làm 191 người chết, rồi hàng loạt vụ đánh bom chung cư ở Nga khiến 300 người thiệt mạng. Và gần đây nhất là vụ bắt cóc con tin tại một trường học ở Beslan (Nga) hồi đầu tháng 9/2004 gây ra cái chết cho 326 người, và làm bị thương 727 con tin, và vụ đánh bom toà đại sứ Úc ở Jakarta (Inđônêxia) hồi thượng tuần tháng 9/2004 vừa qua đã khiến cho 9 người chết và 170 người bị thương…”

Giữa lúc nền hòa bình thế giới đang bị đe dọa nặng nề, thì qua đoạn Tin mừng hôm nay, chúng ta nghe vang vọng lời Chúa:

– Phúc cho ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.

Đúng thế, cho đến ngày hôm nay, hòa bình mãi mãi vần là một ước vọng sâu xa nhất của con người. Thế nhưng, chúng ta không thể ngồi yên để đón nhận hòa bình như đón nhận một quà tặng từ trời rơi xuống. Trái lại, chúng ta phải ra sức kiến tạo, phải tích cực góp phần xây dựng hòa bình.

Thế nhưng, việc kiến tạo và xây dựng hòa bình không phải được bắt đầu bằng những hội nghị bàn tròn hay bàn vuông, mà phải được bắt đầu ngay từ cõi lòng mỗi người. Vì thế, chúng ta không lấy làm lạ khi thấy trong đêm Giáng sinh, các thiên thần đã hát vang trên cánh đồng Bêlem:

– Bình an dưới thế cho người thiện tâm.

Giờ đây trong thinh lặng và bình tĩnh, nhìn vào tận đáy tâm hồn, chúng ta sẽ nhận ra kẻ nội thù phá hoại sự bình an của bản thân và của người khác chính là sự ghen tức.

Thực vậy, sách “Cổ học tinh hoa” đã kể lại một mẩu chuyện như sau:

Có một vị tướng, trước khi xuất quân, đã khao tất cả các binh sĩ một bữa tiệc thịnh soạn bằng thịt dê. Không hiểu vì quên lãng hay vì nghĩ rằng là chỗ thân tình, nên đã không báo cho anh đánh xe. Thế là anh đánh xe nổi giận đùng đùng, cho rằng mình đã bị đối xử tệ bạc.

Sáng hôm sau khi ra trận, anh ta đã đánh xe và chở thẳng vị tướng và giao nộp cho quân địch.

Chỉ vì một miếng thịt dê và do lòng ghen tức mà anh đánh xe đã phản bội, đã phá đổ mọi tình nghĩa mà vị tướng đã dành cho anh trong suốt bao nhiêu năm trời.

Với chúng ta cũng vậy, nhiều khi chỉ vì một miếng thịt dê, nghĩa là chỉ vì những quyền lợi nhỏ mọn, nhưng được lòng ghen tức thúc đãy và thổi phồng, chúng ta sẵn sàng coi những người thân cận ruột thịt là kẻ thù của mình. Chúng ta quên đi mọi tình nghĩa cũ để rồi tìm mọi cách triệt hạ cho bằng được những kẻ chúng ta ghen tức.

Thế nhưng, chính sự ghen tức này đã làm cho tâm hồn chúng ta trở nên bất ổn và nhiều lúc còn dày vò cắn rứt vì những lời nói chì chiết và những hành động thô bạo của chúng ta.

Và hơn thế nữa, sự ghen tức còn hủy diệt sự bình an giữa chúng ta và người khác. Bởi vì một khi đã nhìn nhau bằng cặp mắt không mấy thiện cảm, làm sao chúng ta có thể tạo được sự hài hòa và cảm thông.

Chình vì thế, để góp phần xây dựng sự bình an giữa chúng ta và những người chung quanh, thì việc đầu tiên cần phải làm ngay, đó là hãy trục xuất kẻ nội thù nguy hiểm này ra khỏi cõi lòng chúng ta, đó là sự ghen tức. Bởi vì có đánh bật tận gốc rễ sự ghen tức, thì bấy giờ chúng ta mới có thể nhìn nhau bằng cặp mắt trong sáng và từ đó mới dễ dàng đi tới chỗ hiểu biết và cảm thông với nhau hơn. Đó phải là yếu tố căn bản cho một sự bình an chân chính.

 

37. Tám Mối Phúc

Khi còn bé tôi nghĩ rằng nếu đào một cái lỗ xuống đất và cứ tiếp tục đào, đào mãi, tôi có thể làm thành một con đường hầm từ Việt Nam xuyên qua trái đất sang đến Hoa Kỳ. Tất cả mọi người Mỹ, nhà cửa, ruộng vườn… là thế giới lộn ngược!

Đó là lý luận của trẻ con. Nhưng một thế giới lộn ngược đối với Chúa Giêsu không phải là một tư tưởng quá điên rồ. Chúa Giêsu trong bài giảng trên núi hôm nay, thánh Matthêu đã đưa ra Tám Mối Phúc làm đảo lộn những giá trị và sự khôn ngoan của con người. Những phúc lành của Chúa Giêsu là những giá trị bị lộn ngược.

Đang khi người ta chúc “Phúc cho những ai giàu có” thì Đức Giêsu lại nói “Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó”. Đang khi người ta chúc “Phúc cho những ai lanh lợi” thì Đức Giêsu nói “Phúc cho những ai hiền lành”. Đang khi người ta chúc phúc “Phúc cho những ai vui vẻ” thì Đức Giêsu nói “Phúc cho những ai đau buồn”. Người ta chúc “Phúc cho những ai tiệc tùng linh đình”. Đức Giêsu nói “Phúc cho những ai đói khát điều công chính”. Người ta ước ao “Phúc cho những ai có quyền hành”. Đức Giêsu nói “Phúc cho những ai hay thương xót người”. Người ta muốn “Phúc cho những ai có thân hình đẹp đẽ thon thả”. Đức Giêsu nói “Phúc cho những ai có lòng trong sạch”. Người ta muốn “Phúc cho những ai gây tin giật gân”. Đức Giêsu nói “Phúc cho những ai ăn ở thuận hòa”. Đang khi người ta muốn “Phúc cho những ai có đủ tiền mướn luật sư giỏi” thì Đức Giêsu nói “Phúc cho những ai bị bách hại vì lẽ công chính”. Lý do của sự đảo ngược giá trị này vì Chúa Giêsu rao giảng với tiêu chuẩn và uy quyền của thần linh. Chúa tập trung vào việc yêu mến Thiên Chúa và thương yêu tha nhân, còn người trần gian lại tập trung vào sự hưởng thụ ích kỷ và thỏa mãn khoái lạc.

Triết gia Aristốt xưa kia đã nói: “Hạnh phúc (happiness) là cái mà tất cả mọi người tìm kiếm”. Đó là điều tự nhiên của con người. Sự ao ước này có nguồn gốc thần linh: Thiên Chúa đã đặt nó trong trái tim con người để lôi kéo con người lại với Người. Do đó những điều con người nghĩ là hạnh phúc, nhưng không đưa họ về với Thiên Chúa, đều là hạnh phúc giả tạo, khoái cảm mau qua, và không phải là phúc lành thực sự.

Người nghiện rượu tin rằng hạnh phúc nằm trong chai bia, chai rượu. Một chai chưa đủ, rồi hai, ba chai. Sau đó lái xe về nhà, vượt đèn đỏ, gây tai nạn. Sáng sớm tỉnh dậy thấy mình mẩy băng bó đầy những thương tích. Từ đó anh học biết rằng hạnh phúc hứa ban bởi rượu là giả tạo, hoàn toàn không phải là phúc lành tí nào!

Thế gian có thể tìm kiếm được khoái cảm mà họ muốn, nhưng cũng có thể mất. Một sự thay đổi về tài sản của cải, một sự suy sụp về sức khỏe, một kế hoạch bị thất bại, một tham vọng không đạt được, và ngay cả một sự thay đổi của thời tiết… cũng có thể lấy đi cái hạnh phúc mong manh do thế gian mang lại.

Phúc lành của người Kitô hữu hoàn toàn khác biệt. Không một yếu tố ngoại giới nào có thể ảnh hưởng đến, hay hủy diệt nó được. “Và niềm vui của các con”, Đức Giêsu đã nói “không ai lấy mất được”. “Các mối phúc thật cho thấy một trật tự của hạnh phúc và ân sủng, của vẻ đẹp và bình an”.

 

38. Phúc Tám Mối

Vào năm 258, hoàng đế Valerian ban lệnh bắt tất cả các giám mục, linh mục và thầy sáu vào tù. Đức Giáo Hoàng Sixtus II là người bị bắt đầu tiên. Ngài liền tin tưởng trao lại tài sản của Giáo Hội cho thầy sáu Laurensô với những lời hướng dẫn phải phân phát cho các bà góa và trẻ mồ côi. Thầy sáu Laurensô đã làm đúng như lời dặn của Đức Giáo Hoàng Sixtus II.

Khi Đức Giáo Hoàng Sixtus II bị đem đi hành quyết, Laurensô đã đi theo ngài khóc lóc thảm thiết: “Thưa Đức Thánh Cha, ngài vội vàng đi đâu vậy? Và con phải làm gì đây? Tại sao ngài lại đi đến nơi hiến tế mà không có thầy sáu, người phụ giúp bàn thờ của ngài? Con đã thi hành lệnh truyền của ngài về tài sản của Giáo Hội”. Đức Giáo Hoàng đáp: “Con yêu dấu, ta sẽ không bỏ rơi con đâu. Con sẽ theo ta trong ba ngày nữa”.

Ngay sau đó, Laurensô đã bị bắt. Ông quận trưởng đã yêu cầu Laurensô phải trao nộp tài sản của Giáo Hội. “Giáo Hội thực sự rất giàu có”, Laurensô trả lời “Tôi sẽ chỉ cho ông thấy những tài sản đó, nhưng hãy cho tôi một thời gian ngắn để gom góp lại. Thời gian đã được ban, và Laurensô đã đi đến với các bà góa, trẻ mồ côi, những người què quặt, và già yếu mà Giáo Hội đã giúp đỡ. Ngài đã qui tụ họ lại xếp thành hàng dài đứng trước cửa nhà thờ, rồi mời ông quận trưởng đến và nói: “Thưa ông, đây là những tài sản của Giáo Hội!” Viên quận trưởng nổi giận và hứa sẽ ban cho Laurensô một cái chết đặc biệt: từ từ và đau đớn.

Sau đó Laurensô đã bị xích vào vỉ sắt nướng thịt, nằm trên ngọn lửa cháy riu riu. Tuy chịu cực hình, nhưng lòng khát khao của ngài hướng về Thiên Chúa quá lớn lao đến độ ngài không còn cảm thấy đau đớn. Nằm trên vỉ sắt một lúc, ngài nói với ông quận trưởng: “Xin ông hãy lật sang mặt bên kia, bên này đã chín đủ rồi”. Quân lính đã làm y như vậy. Sau đó ngài lại nói: “Bây giờ cả hai bên đã chín, tất cả đã sẵn sàng, hãy đem ra phục vụ!” Rồi ngài cầu nguyện cho tòa thánh Rôma, để nhờ đó, thế giới có thể đón nhận được đức tin. Đang khi ngước mắt hướng lên trời, ngài đã tắt hơi thở cuối cùng trong niềm vui hân hoan được trở về với Thiên Chúa hằng sống.

Nơi Thiên Chúa, người nghèo khổ đặt tất cả sự phó tác tin cậy, người đau buồn tìm sự ủi an, người tội lỗi xin ơn tha thứ, người ốm đau được ơn chữa lành, kẻ bị bách hại có sức mạnh và lòng can đảm phi thường… Họ hoàn toàn tùy thuộc nơi Ngài. Vì thế tất cả phúc lành được trao ban cho họ.

Mẹ Têrêsa Calcutta là một người phụ nữ sống cho tha nhân. Suốt đời của mẹ sống với Phúc Tám Mối của Chúa Giêsu. Mẹ phục vụ những người nghèo khó nhất trần gian là để bắt chước lòng nhân từ của Chúa Giêsu. Ngay cả những người không phải là Kitô hữu đã nhìn vào mẹ Têrêsa và thấy mẹ có một điều gì đó giống như Thiên Chúa và có thể nối kết với Ngài. Một người ăn xin đang hấp hối bên vệ đường thành phố Calcutta, sau khi được cứu sống đã hỏi mẹ Têrêsa: “Trên trần gian này, có điều gì giống với Thiên Chúa không?” Mẹ trả lời: “Không, tôi đang cố gắng là một cái gì đó giống như Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa”.

Cha Henri Nouwen, tác giả nổi danh của nhiều tác phẩm tu đức, khi ngài còn sống đã gặp mẹ Têrêsa ở Rôma. Ngài nói rằng điều đáng chú ý nhất nơi mẹ Têrêsa, là mẹ thường xuyên tập trung vào Đức Giêsu. Dân chúng bu quanh lấy mẹ và đặt biết bao nhiêu câu hỏi. Mẹ đã trả lời với một nguyên tắc duy nhất: tập trung tất cả nơi Đức Giêsu. Những câu trả lời của mẹ, mới nghe có vẻ “đỏ mặt” vì đơn sơ và ngây thơ, phản ảnh những thói quen của một người sống hoàn toàn tùy thuộc vào Thiên Chúa. Chính cha Nouwen cũng đã cảm nhận được một sức mạnh dịu dàng và êm đềm phát ra từ những câu trả lời đó.

Phúc Tám Mối là những con đường dẫn ta về Nước Trời theo gương Chúa Giêsu đã đi. Đó không phải là tám con người khác nhau, nhưng là tám bức hình chụp từ những góc cạnh khác nhau của cùng một người, người đặt hoàn toàn tin tưởng và tùy thuộc vào Chúa Giêsu Kitô, người sống theo giảng thuyết và trở nên giống như Ngài.

Ở Hoa Kỳ hằng năm những hãng xăng dầu thường phát hành miễn phí những tấm bản đồ chỉ đường. Lịch sử của những tấm bản đồ chỉ đường này bắt đầu vào năm 1895, khi tờ báo “Chicago Times Herald” vẽ ra lộ trình của cuộc đua xe hơi từ Chicago tới Waukegan cho các độc giả theo dõi. Từ đó trở đi những người lái xe đã bắt đầu đòi hỏi những bản đồ chỉ đường giữa các thành phố. Những tấm bản đồ vẽ ra những con đường tốt nhất, những chỗ phải đi đường vòng, những điều kiện của xa lộ, những chỗ nghỉ ngơi, đổ xăng và những điểm cần phải chú ý dọc theo bên đường…

Sách Giáo lý Công giáo giải thích rằng: “Trong suốt cuộc đời của Chúa Giêsu, Ngài luôn tỏ mình là “khuôn mẫu của chúng ta”. Ngài là “Con người hoàn hảo” và Ngài mời gọi chúng ta đến làm môn đệ Ngài, bước theo Ngài: trong sự hạ mình của Ngài. Ngài đã để lại cho ta một gương để noi theo; bằng lời cầu nguyện của Ngài, Ngài thu hút ta vào việc cầu nguyện; bằng sự khó nghèo của Ngài, Ngài kêu gọi chúng ta hãy tự ý chấp nhận cảnh thiếu thốn và những cuộc bách hại”.

Phúc Tám Mối là tất cả những gì Chúa Kitô đã sống, Ngài muốn chúng ta sống những điều đó trong Ngài, để Ngài sống trong chúng ta như Công đồng Vatican II đã nói: “Do sự Nhập Thể của Ngài, một cách nào đó Con Thiên Chúa đã kết hiệp với mỗi người chúng ta”.

 

39. Chú giải của Noel Quession

Thy đám đông, Đức Giêsu lên núi…

Phải suy nghĩ về những lời dẫn nhập đầu tiên này của bài giảng trên Núi Thánh Matthêu giới thiệu với chúng ta Đức Giêsu lúc bắt đầu sứ vụ của Người, có một đám đông đi theo Người. Và những câu trước đó mô tả đám đông ấy gồm, những người bệnh hoạn, tật nguyền, những kẻ kinh phong, bại liệt… (Mt 4,23). Đức Giêsu là Đấng nhìn thấy đám đông lầm than vất vưởng mà chạnh lòng thương… như bầy chiên không người chăn dắt (Mt 9,36). Ngày hôm nay… tôi nhìn thấy ánh mắt của Đức Giêsu đẫm lệ xót thương những ai bị đè bẹp: bệnh hoạn, tật nguyền, những người không việc làm, những phụ nữ bị nhạo báng, những người nghèo thuộc mọi thành phần, “những người thu thuế và tội lỗi” cả một nhân loại ấy bên bờ tuyệt vọng.

Khi Đức Giêsu nhìn thấy tất cả nhữngđiều đó… Người làm gì? Người nói gì?

Đức Giêsu lên núi. Người ngi xung các môn đệ đến gn bên. Người m ming dy h rng:

Phong cảnh này được cố ý dựng lên vĩ đại và long trọng. Đức Giêsu rất con người nhưng theo Tin Mừng của Matthêu cũng là “Đức Chúa Vinh quang”, uy nghi như một tranh thánh của phương Đông. Phong cảnh núi non là “bài giảng” Đây không phải là một phác họa cho diễm lệ, đó chính là khung cảnh vĩ đại của việc công bố luật mới là núi Xi-nai mới, đỉnh núi bốc khói nơi Thiên Chúa nói với dân. Và Đức Giêsu là Môsê mới, nhà làm luật, nhà giải phóng chân chính cho tất cả những ai đang sống trong nô lệ.

Vâng, bạn đang bị đè bẹp bởi một hoàn cảnh mà con người không thể chịu đựng nỗi, bạn hãy lắng nghe! Thiên Chúa muốn nói với bạn môt điều. Bạn đang khốn khổ bởi vì bạn cảm thấy bị tổn thương trong những khát vọng sâu nhất bạn hãy lắng nghe! Nếu bạn có cơ may “‘hiểu được, điều Người sắp nói với bạn, thì cuộc đời bạn sẽ được thay đổi. Hãy lắng nghe… Bạn hãy lắng nghe Thầy. Bạn hãy lắng nghe Đức Giêsu.

“Phúc thay… Phúc thay… Phúc thay…

Đó là chữ đầu tiên của tất cả các câu trong “bài giảng trên núi”.

“Phúc thay”!, “makarioi” trong tiếng Hy-lạp.

“Phúc thay”!, “asherei” trong tiếng Do Thái…

Vâng chủ đề của bài thuyết giáo đầu tiên của Đức Giêsu chính là hạnh phúc. Các mối phúc thật là một sự loan báo về hạnh phúc, một “tin mừng tóm lược toàn bộ Tin Mừng. Các bạn là những người nghèo khó, bị khinh miệt những người chán nản, thất vọng, các bạn có thể được hạnh phúc. Các bạn hãy hạnh phúc. Bởi vì hạnh phúc thật trước tiên không phải là công việc của sự giàu sang, của sự thành công, của lạc thú. Bạn đã tưởng rằng hạnh phúc không dành cho bạn… Đức Giêsu nói với bạn rằng bạn có thể được hạnh Phúc. Đức Giêsu muốn làm cho các môn đệ của người trở thành những người hạnh phúc. Bạn là Kitô hữu! bạn có biết rằng bạn đang hạnh phúc không? Nếu bạn không hạnh phúc, bạn không hỏi tại sao ư?

Nhưng vấn đề là hạnh phúc nào? Có nhiều loại hạnh phúc.Và hạnh phúc khi nào? Cho cuộc đời hiện tại hay cuộc sống mai sau?

Phúc thay ai có tâm hn nghèo khó…

Phúc thay ai hin lành…

Phúc thay ai su kh

Phúc thay ai khao khát nên người công chính…

Phúc thay ai xót thương người…

Phúc thay ai có tâm hn trong sch…

Phúc thay ai xây dng hòa bình…

Phúc thay ai b bách hi vì sng công chính…

Hạnh phúc mà Đức Giêsu nói đến không loại trừ những nghịch cảnh và sự đau khổ. Chúng ta đã thấy điều đó qua tất cả bản văn, một cách chính xác Đức Giêsu nhắm đến những người mà người ta coi như những người bất hạnh. Các mối phúc thật không nhắm đến “những”hạng người khác Những từ ngữ thay đổi ở đó chỉ để làm dôi lại một tư tưởng duy nhất: “Anh em hãy đến cùng tôi. tất cả những ai đang vất vả và nặng nhọc, và tôi, tôi sẽ cho anh em sự nghỉ ngơi. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học vôi tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng vì ách tôi êm ái và gánh tôi nhẹ nhàng” (Mátthêu 11,28-30).

Vâng, Đức Giêsu đúng là Đấng mà người ta chờ đợi “Đấng đã được loan báo”, “Đấng phải mang lại Tin Mừng “cứu độ” Người ta hay quên rằng chữ “Tin Mừng” đã được chính Đức Giêsu lấy lại từ phần thứ hai của sách I-sai-a: “Thần khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu (oint = chnstoa) tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức…” (I-sai-a 61, 1.6 – Lc 4, 18)

Phúc thay… vì Nước Tri là ca h

Tám mối phúc thật đầu tiên được đóng khung bằng sự bao gồm này, được lặp lại hai lần ở đầu và ở cuối (Mt 4,3 và 4,10). Bởi công thức này, Đức Giêsu trả lời hai câu hỏi của chúng ta: hạnh phúc nào? khi nào? Vấn đề là một hạnh phúc “từ bây giờ”. Nước trời đang ở trong anh em: Không phải chỉ là một hạnh phúc được hứa cho mai sau, cho đời sau. Phải hiểu rõ sự tế nhị trong tư tưởng của Đức Giêsu.

Sẽ là một sự hiểu sai khi biến nó thành một thứ “thuốc phiện của quần chúng để người ta hút và ngủ thiếp đi với lại hứa sẽ được hạnh phúc sau này, bên kia thế giới sau khi chết! Đức Giêsu nói rằng những ai bị đè bẹp bởi thế giới này thì được hoặc có thể được hạnh phúc một cách thiết thực ngay trong lúc mà Đức Giêsu nói điều đó với họ. Nhưng điều này không hiển nhiên. Phải ý thức về nó. Và điều ấy dĩ nhiên không loại bỏ viễn cảnh của một “thế giới

phải đến”, “Nước Thiên Chúa” nhưng niềm hy vọng ấy đã chuyển biến hiện tại. Tương lai hạnh phúc mà Đức Giêsu hứa ban cho tất cả những ai bị hoàn cảnh nhọc nhằn hiện tại đè bẹp…. tương lai ấy đã trở thành một thực tại hiện diện trong ngôi vị và tình bạn hữu của Đức Giêsu

Bởi vì hạnh phúc ấy, chúng cuộc, chính là Triều đại của Thiên Chúa”, chính là “Tinh yêu Thiên Chúa” ngay từ Hôm Nay nếu bạn muốn thật sự soi sáng hoàn cảnh đau khổ của bạn. Đức Giêsu không bao giờ định nghĩa “Nước Thiên Chúa (những chữ Nước, Triều đại, Vương quyền đều giống nhau trong tiếng Do Thái), nhưng nó gợi lên ý tưởng và người ta có về Đấng Quân Vương, Đấng Thiên Sai lý tưởng trong toàn bộ Phương Đông Cổ đại: chức năng đầu tiên của vua (Đấng quân Vương) là bảo đảm sự giải phóng khỏi mọi sức mạnh ngoại bang đang đe dọa… bảo đảm công lý và bảo vệ những người nghèo, trẻ nhỏ chống lại những người giàu sang và quyền thế là những người luôn luôn có khuynh hướng bóc lôt những người yếu đuối. Khi Đức Giêsu khẳng định rằng những người nghèo là những người được Thiên Chúa ban đặc ân, rằng triều đại của Thiên Chúa thuộc về họ, rằng công lý vương đế đứng về phía những người phận nhỏ….Đức Giêsu không nói rằng những người nghèo là những tốt nhất, đạo đức hơn những người khác. Vấn đề ở đây không phải là tâm lý hoặc đạo đức của những người nghèo. Trong. Những công bố này về các mối phúc thật, có một sự mạc khải một ý tưởng nào đó về Thiên Chúa: Thiên Chúa tự nhận mình có bổn phận là một ông vua tốt. Thiên Chúa đặt niềm vinh dự của Người trong việc đem lại “hạnh ‘phúc”, một cách mầu nhiệm, cho những người bị tước đoạt hết mọi hạnh phúc của con người. Cho cả bạn nữa, nếu bạn muốn! Hạnh phúc nghịch lý và không thể hiểu được đối với người nào đã không cảm nghiệm nó.

Vậy bạn hãy thử xem. Hãy bước vào hạnh phúc đó của Thiên Chúa. Ngay NGÀY HÔM NAY.

Nếu bạn đã bắt đầu hiểu được ý nghĩa toàn diện” của các mối phúc thật, lúc đó bạn hãy lắng nghe cách thể hiện mà Matthêu đem lại. Sự công bố Tin Mừng Nước Thiên Chúa trình bày một chương trình sống cho người Kitô hữu: nếu bạn muốn hạnh phúc thì đó là cách mà bạn phải làm.

Phúc thay ai có tâm hn nghèo khó, vì Nước Tri là ca h.

Phúc thay ai hin lành vì h s được Đất Ha làm gia nghip.

Cùng một chữ Do Thái “anawim’: có thể được dịch là “nghèo khó” hay là “hiền lành”. Đó là hai khía cạnh của cùng một thực tại. Chữ “anawim” gợi lên hình ảnh của một người “bị uốn cong”, thái độ của kẻ yếu không còn khả năng tự vệ bắt buộc phải nhường bước trước những người là nạmh nhất. Là người bị hạ nhục, bị làm cho thấp kém, người đó dù là nam hay nữ không làm sao để cho người ta tôn trọng các quyền của mình…. Người “hiền lành” chính là người không bực tức trước sự thịnh vượng của những vô đạo và họ không đánh mất lòng nhẫn nại. Đức Giêsu nói về người “Thầy hiền lành và khiêm nhường ở trong lòng (Mt 11,29-12, 18-21). Bị các kẻ thù công kích, Người tha thứ cho họ. Đức Giêsu đã sống mối phúc thật thứ nhất:

Phúc ai su kh, vì h s được Thiên Chúa i an.

Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì h s được Thiên Chúa cho tha lòng.

Phúc thay ai xót thương người vì h s được Thiên Chúa xót thương.

Phúc thay ai có tâm hn trong sch, vì h s được nhìn thy Thiên Chúa.

Đức Giêsu đã khóc với Mát-ta và Ma-ri-a. Đức Giêsu hoàn toàn “tương ứng” với ý muốn của Chúa Cha: Người là Đấng Công chính. Người là lòng thương xót của Thiên Chúa đối với những người tội lỗi. Người đã tha thứ tha thứ và tha thứ… Tâm hồn Người “thanh khiết” vô song, không chút sai lầm, không chút quanh co: hành động và ý định của Người hoàn toàn thống nhất.

Phúc thay ai xây dng ha bình, vì h s được gi là con Thiên Chúa.

Phúc thay ai b bách hi vì sng công chính, vì Nước Tri là ca h.

Đức Giêsu đến để đem lại hòa bình. Ồ, những ai xây dựng hòa bình thật hạnh phúc, họ hòa giải những cặp vợ chồng gây gỗ, cãi vã nhau, họ nối lại những tình bạn bất hoà? họ làm dịu bớt những xung đột giữa cha mẹ và con cái trong gia đình, họ tạo ra sự lắng nghe và hiểu biết lẫn nhau. Không có sự phục vụ nào lớn hơn là phục vụ anh em mình. “Thầy ban cho anh em bình an của Thầy không như thế gian ban tặng”. (Ga 14,27). Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng” hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao.

 

40. Chú giải của Fiches Dominicales

CÁC MI PHÚC

VÀI ĐIM CHÚ GII:

  1. Tin vui

Hai trong bốn tác giả Phúc âm tường thuật các mối phúc trong phần mở đầu cho bài đại diễn từ cương lĩnh của Đức Giêsu. Theo thánh Luca, bài diễn từ quan trọng này diễn ra “ở đồng áng”, vào lúc quan trọng nhắt của sứ vụ Đức Giêsu ở Galilê, trái lại theo thánh Mátthêu, nó diễn ra vào buổi đầu của sứ vụ Chúa Giêsu ở Galllê, và ở trên núi tượng trưng núi Sinai nơi Môsê mới sẽ công bố Lề Luật của Giao ước mới. Bốn mối phúc tương ứng với bốn lời chúc dữ theo trình bày của Luca chắc chắn gần với chính lời của Chúa Giêsu hơn tám mối phúc của Mátthêu vì Mátthêu nhằm áp dụng giáo huấn đích thực của Chúa Giêsu vào thực tại đời sống Kitô hữu nơi các cộng đoàn của ngài. Hạnh phúc mà các mối phúc công bố cũng như hạnh phúc cho những người sống các mối phúc này trong những hoàn cánh cụ thể của cuộc đời: “Phúc cho ai có lòng khó nghèo!…Phúc cho ai hiền lành!… không phải do chinh phục mà được, nhưng là ơn huệ Thiên Chúa ban qua con Ngài là Đức Giêsu Kitô. Họ được ban tặng hạnh phúc này ngay rừ bây giờ: “Nước Trời là của họ”. Hạnh phúc ấy sẽ triển nở dưới ánh sáng của đời sau: “Phần thưởng của các con sẽ lớn lao trên trời”. Cl. Tassin chú giải: “hạnh phúc” trong Kinh thành là tiếng ca tụng người biết làm cho ơn Chúa ban sinh lợi, nên họ cảm thấy hạnh phúc ngay từ bây giờ, và nếu họ luôn trung thành với con đường đã chọn, họ sẽ được nhìn nhận là người công chính trong giờ phán xét. (Tin Mừng thánh Matthêu, Centurion, 1991, tr. 58).

  1. ca mt hin ti nhào nn tương lai.

Bốn mối phúc đầu của Mátthêu tương tự nhau: ca ngợi người biết hướng về Thiên Chúa và từ chối mọi bạo lực.

+ Phúc cho ai có lòng khó nghèo: vì Nước Trời là của họ. “Sự khó nghèo” mối phúc này nhắm tới không phải là sự khó nghèo về vật chất; nhưng là thái độ tinh thần của một người nghèo rự nhận mình không có quyền hành gì trước mặt Chúa, trái lại mọi sự mình có đều do bàn tay nhân từ của người cha. Potel chú giải: “Người Kitô hữu trước hết nhìn nhận rằng mình đã mãnh nhận sự sống từ Thiên Chúa mà Đức Giêsu dạy phải nhận ra và yêu mến Ngài như người. Sự nghèo khó tinh thần chính là chấp nhận từ thẳm lặng mình rằng sự sống là quà tặng thường xuyên của người Cha này. Thiên Chúa không cần lời khen ngợi, Ngài tự hiến một cách vô vị lợi: đó chính là nguồn mạch sự khiêm nhường Kitô giáo. Một điều nghịch lý là sự khiêm nhường triệt để này lại tạo nên phẩm giá của một con người và của tất cả mọi người. Thực vậy, phẩm giá này còn dựa trên sự giầu có cũng như nhận đức tính nhân bản nhưng trên tình yêu mà Thiên Chúa dành cho mỗi người nhất là người nghèo. Chính đây là trọng tâm của Tin Mừng vĩnh cửu! (Đức Giêsu, lịch sử đích thực, Centuion. 1994, tr. 146-147).

+ Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được đất hứa làm gia nghiệp. Mối phúc thứ hai này nối dài mối phúc trên từ một câu thánh vịnh 36: “những ai hiền lành sẽ chiếm hữu trái đất và sẽ hưởng một nền hòa bình sung mãn”.

  1. Potel nói tiếp: “Sự hiền lành là hoa trái của sự khó nghèo. Người nghèo thì không có một phương tiện thể lý hoặc pháp lý nào được bảo vệ vụ kiện của mình. Vậy phải chăng người nghèo hoàn toàn trơ trọi trước những người không nhìn nhận quyền của mình? Không, vũ khí của họ chính là sự hiền lành, sự nhẫn nại, sự tín nhiệm vào Thiên Chúa. Sự chiến thắng vĩnh viễn không đến từ võ lực. Ngày nay người ta nói nó là kết quả của sự không dùng bạo lực (sách đã dẫn, tr.147) + Phúc thay ai sầu khổ vì họ sẽ được an ủi dĩ nhiên phải hiểu là: họ sẽ được Thiên Chúa an ủi bởi vì các nhà chuyên môn gọi thì thụ động ở đây là thì phụ động thần học. Tận đáy sâu của nỗi tuyệt vọng, người tín hữu vẫn thấy ánh lên một tia hy vọng: Tia hy vọng này là khuôn mặt của Thiên Chúa. Ngài đến gần để an ủi người đắm chìm trong cơn thử thách. (Sách đã dẫn).

+ Phúc thay ai khát khao nên người công chmh, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thỏa lòng. Rảo qua toàn bộ Kinh Thánh. Sự công chính có mối phúc thứ bốn được hiểu là tự điều chỉnh tâm hồn và thái độ theo cách thế Thiên Chúa đã lành Thiên Chúa ở đây là đấng đã đến gặp gỡ con người và nối kết với họ bằng giao ước. Trọn đời mình, người Kitô hữu tìm cách đáp ứng những đòi hỏi tinh thần và luân lý do giao ước này đề ra bằng cách thực hiện sự công chính”. Đối với Thiên Chúa và đối với đồng loại (Sách đã dẫn).

Họ sẽ được Thiên Chúa cho thỏa lòng Người Kitô hữu hiểu rằng cuối đời họ sẽ nhận được sư sống sung mãn từ Thiên Chúa giao ước. Và theo họ, nếu đời sống đạo đức bắt nguồn từ Thiên Chúa thì nó cũng sẽ hoàn tất nơi Ngài. Bốn mối phúc sau hướng đến thái độ đặc trưng của người môn đệ Đức Kitô.

+ Phúc thay ai xót thương người vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương. Khi chiêm ngắm cách Thiên Chúa, Đấng nhân rừ và xót thương cư xử với ta, người môn đệ của Đức Giêsu học biết tha thứ những xúc phạm, trợ giúp anh em mình sống trong cảnh tuyệt vọng.

+ Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ nhìn thấy Thiên Chúa. Sự trong sạch ở đây không có liên quan trực tiếp đến tình dục. Nó cũng không phải là sự chinh trực, sự không giả dối, sự đi đôi giữa nói và làm, giữa hành vi và động cơ sâu xa của nó. Sự trong sạch đây là con đường hợp nhất với Thiên Chúa.

+ Phúc thay ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa! Jean Potel giải thích: Đối với cuộc sống hòa bình bằng cách rèn luyện một đời sống hoà hợp và an lành không đủ. Ngài đòi hỏi một đức ái tích cực, nhất là khi không có hòa bình trong gia đình, một công đoàn Kitô hữu, giữa các nhóm xã hội cũng như các dân tộc. Hòa bình không có biên giới cũng như tình yêu Thiên Chúa không có giới hạn. Nhưng người đời sống hòa bình sẽ được gọi là con Thiên Chúa: dĩ nhiên nhiện vụ của con là tiếp tục công việc của cha mình, mà điều Cha trên trời muốn là đem hòa bình đến cho con người. (Sách đã dẫn. tr. 148 ).

+ Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ!”. Trung thành thân giữ giáo huấn của Đức Kitô như trong Các Mối Phúc không phải là không có những hiểu lầm, những đối nghịch, những bách hại vì những giá trị Nước Trời đi ngược lại với những giá trị thường được đề cao như những tiêu chuẩn cuộc sống. Đối với Đức Giêsu, những môn đệ bị bách hại của ngài là những người nghèo thực sự của mối phúc thứ nhất. Họ chỉ có lời hứa Nước Trời cho những khổ đau họ gánh chịu.

Tất cả các mối phúc đều vẽ lên một khuôn mặt, đó là khuôn mặt của Đức Giêsu. Jean Potel kết luận ngài hân hoan đón nhận Nước Trời mà Ngài hết lòng chờ đợi và đã hoàn toàn dấn thân vì Nước Trời ấy. Cuộc đời, lời nói, hành vi của ngài đều biểu lộ nơi Ngài một con người nghèo hèn, hiền lành, thương xót, trong sạch, kiến tạo hòa bình; một người chỉ sống vì Nước Trời đang đến, vì triều Đại của Đấng mà các môn đệ Ngài sẽ cầu khẩn khi gọi là Cha”. (sách đã dẫn, tr. 149).

BÀI ĐỌC THÊM:

  1. “Lng nghe li Đức Giêsu trong tương quan sng động vi con người ca Ngài”.

(Đức Cha L. Daloz, trong “Nước Trời đến gần”, Desclée de Brouwer, 1994, tr.43-44).

Mấy lời dẫn nhập và “diễn từ” của Đức Giêsu được tập hợp lại trong bài “diễn từ”: “Thấy đám đông, Đức Giêsu lên núi. Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần bên. Người mở miệng dạy họ rằng”. Ta đừng khinh thường bỏ qua những hàng này. Nhờ chúng, toàn bộ diễn từ theo sau mới có ý nghĩa, bởi vì bài diễn từ này không chỉ đơn giản là một chuỗi những câu trống không nói lên những qui tắc về một lối sống đạo đức. Nó là lời của Đức Giêsu: Người mở miệng dạy họ rằng. Đừng quên con người Đức Giêsu. Ngài nói với đám đông và đám đông phản ứng: ở cuối bài giảng trên núi, tác giả Tin Mừng nói với chúng ta: “Khi Đức Giêsu Giảng dạy những điều ấy xong, đám đông sửng sốt về lời giảng dạy của Ngườ, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư của họ.” (7,28-29) Điều đánh động đám đông không phải là giáo thuyết nhưng là con người của Đức Giêsu và thẩm quyền nơi lời của Ngài.

Chúng ta cũng vậy, hãy nghe lời Đức Giêsu không như những chân lý ngàn đời, nhưng trong mối tương quan sống động, với bản thân Ngài. Chính con người của Ngài làm cho giáo huấn của Ngài có thẩm quyền. Chiêm niệm những gì mình đọc là điều cần thiết, đừng chỉ suy tư về vẻ đẹp và về những đòi hỏi trong lời Đức Giêsu nói. Thẩm quyền lời Đức Giêsu biến thành một bảng xét mình cũng không đúng. Vì như vậy, lời Chúa sẽ trở thành một đối tượng chiếm hữu, một phương tiện sử dụng… để tạo dựng một đời sống tốt lành, một sự hoàn thiện cho chúng ta, như những người Biệt phái. Trái lại, chúng ta phải đón nhận lời từ miệng Đức Giêsu, phải chăm chú điều Ngài muốn nói với chúng ta… chứ không phải vào điều mà những lời này nói với chúng ta, vì làm như vậy có nguy cơ là những lời này chúng nói gì với chúng ta! Một nguy hiểm nghiêm trọng là ta thường đọc Tin Mừng chỉ như một bản văn đơn thuần, như một đối tượng để biến thành phương tiện sử dụng. Tin Mừng là nơi gặp gở, nơi lắng nghe. Khi ta không hiểu rõ lời Ngài nói chúng ta có thể xin Ngài giải thích để ta hiểu. Khi ta không thể thực hiện được điều Ngài đòi hỏi, ta xin Ngài giúp đỡ gặp gỡ Đức Giêsu, nghe Ngài, cầu xin Ngài cho ta có tai để biết nghe, cho ta sức mạnh để thực hiện, đó là cách ta đọc Tin Mừng. Ta hãy lắng nghe những gì Đức Giêsu nói trong bài diễn từ trên núi này. Cầu xin Ngài cho chúng ta hiểu lời Ngài dạy và đem ra thực hành.

  1. “Các mi phúc: li ha và món quà hnh phúc”.

(J. Guillet, trong ‘Đức Giêsu trong đức tin của những môn đệ đầu tiên’ Dédée de Brouwer, 1995, tr. 96-97).

“Khi mở đầu sứ điệp của Ngài bằng các mối phúc, Đức Giêsu không muốn phác họa một còn đường đưa đến hạnh phúc, một lộ trình buộc ta phải theo, nhưng Ngài hứa: một quà tặng mà chỉ có Ngài mới có thể ban. Ngài không bảo ta đi tìm hạnh phúc hay chờ đợi nó. Đây chỉ là sư mơ ước theo tính toán của ta, niềm hy vọng phát sinh từ những ước muốn của ta. Ngay trước khi công bố các mối phúc, Đức Giêsu đã kêu gọi dân chúng sám hối và tin tưởng, anh em hãy sám hối là tin vào Tin Mừng! Khi mời gọi sám hối và công bố Tin Mừng trọng đại, Đức Giêsu xuất hiện như một tiên tri cao cả nhất từ trước tới nay. Khi tung ra các mối phúc, Ngài tỏ ra mình là người khôn ngoan và giới thiệu một kinh nghiệm. Tin Mừng vừa là lời tiên tri của một biến cố vĩ đại vừa là sự chuyển thông đức khôn ngoan.

Tin Mừng không phai là đi tìm hạnh phúc nhưng là lời hứa và quà tặng hạnh phúc vì Thiên Chúa đã tạo dựng con người để họ được hạnh phúc. Nhưng đó không phải là thứ hạnh phúc mà họ ước mơ và hăng say chinh phục: Hạnh phúc đây chính là sự sống cua Thiên Chúa ban cho con người là trong hạnh phúc đó, ngài qui tụ tất cả con cái Ngài lại. Ta có thể làm sai lạc ý nghĩa của các mối phúc cũng như làm méo mó hình ảnh của Đấng Thiên Sai đến nỗi không còn nối kết hình ảnh ấy với Đức Kitô được nữa Ngài không nói: anh em nghèo khổ nên anh em sẽ được hạnh phúc; Ngài cũng không nói: anh em hãy nghèo khổ để được hạnh phúc. Ngài chỉ nói: anh em nghèo khổ, hạnh phúc đến với anh em. Ngài có thể nói điều đó bởi lời Ngài đem đến hạnh phúc này, bởi vì chính bản thân Ngài là niềm vui là hạnh phúc của Thiên Chúa. Nhưng để cảm nhận được điều này, phải tin và ưng thuận theo Ngài. Hạnh phúc này không thuộc về một thế giới khác với thế giới ta đang sống Nó cũng không được cất giấu ở một nơi bí mật. Nhưng ngay từ bây giờ nó đã được ban tặng cho tất cả mọi người, là trước hết là những người đau khổ. Những phép lạ Đức Giêsu đã gieo trên đường rao giảng là dấu chỉ cho thấy Ngài chính là cội nguồn hạnh phúc. Đây chỉ là những dấu chỉ, chúng không biến đổi hoàn cảnh ta đang sống, nhưng chỉ ra một lối thoát là cho ta nghe được lời mời: Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhượng. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi”. (Mt. 1l,28-30) Đó là phong cách và ngôn ngữ của một tôn sư về sự khôn ngoan của một người đã sống một kinh nghiệm và tự biết anh có thể truyền đạt nó. Đó cũng chính là người cộng tác mối phúc và ngôn ngứ vẫn là một: Phúc cho những ai hiền lành-Ta là Đấng hiền lành; nghỉ ngơi hòa bình. Từ dùng có thể thay đổi, nhưng vẫn là kinh nghiệm ấy, tiếng nói ấy, tấm lòng ấy. Chỉ có Ngài mới biết hạnh phúc là gì; chỉ có Ngài mới có thể ban hạnh phúc vì hạnh phúc là quà tặng của Thiên Chúa.”

 

41. Phân tích chi tiết mỗi chân phúc

(Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt)

A- Chân phúc th nht: nhng k nghèo khó trong tinh thn (5, 3)

  1. Ni tâm hóa mi phúc: ý nghĩa đại cương của tiều tiết tôi pneumati, “trong tinh thần” (riêng Matthêu) thật rõ ràng: Matthêu chú trọng vào một thái độ tâm hồn hơn là vào giai cấp khó nghèo trong xã hội. Tin Mừng cũng cống hiến nhiều thành ngữ tương tự Trong 1 Cr 7,34, người trinh nữ được gọi là “thánh trong thân xác và thần hồn” (kai tôi somati kai tôi pneumati), vì bên cạnh việc thánh hiến thân xác, thành ngữ còn gợi lên một thái độ tâm hồn, thái độ nhờ đó người trinh nữ chú tâm làm đẹp, một mình Chúa. Xem Cv 18,25 (Apollô có tâm hồn nhiệt nồng); 20,22 (Phaolô bị xiềng trong tinh thần; Ng-Thế-Thuấn: bị xiềng bởi Thần khí). Trong bản 70, người ta cũng nêu ra được rất nhiều thành ngữ tương tự: “tinh sạch trong lòng”, “thẳng thắn trong lòng”, “tan nát tâm hồn”, “không cắt bì trong tiệm”… Hết thảy các công thức đó đều nói lên mối ưu tư muốn nội tâm hóa một tính cách, bằng cách xác định trung khu của nó là trong tinh thần; đấy là một thái độ tinh thần vậy.
  2. Các li gii thích khác nhau v chân phúc này. Phải loại bỏ mọi cách giải thích cho rằng tinh thần là đối tượng, chứ không phải là trung khu của sự khó nghèo, cho rằng những ai có tinh thần nghèo khó là những kẻ nghèo nàn về tinh thần, những kẻ thiếu ơn Thần khí và đang cảm thấy nhu cầu, những kẻ mà sự bần cùng là ở chỗ không hiểu biết những điểm tinh tế trong các nố pháp luật (đối nghịch với các tiến sĩ Luật).

Còn lại hai lối giải thích xem tinh thần như là trụ sở của sự nghèo khó. Theo lối giải thích đầu, đấy là một thái độ từ bỏ và siêu thoát bên trong đối với của cải. Sự nghèo khó trong tinh thần ấy không tất nhiên mâu thuẫn với việc chiếm hữu của cải nhưng với lòng dính bén chúng từ bên trong. Tuy nhiên có một vấn đề được đặt ra: đâu là tương quan giữa đức siêu thoát nội tâm này với sự khó nghèo đích thực bên ngoài? Khi nhấn mạnh tới thái độ bên trong, phải chăng Matthêu muốn ngầm bảo rằng ta có thể thỏa mãn về thái độ ấy mà không cần cho sự nghèo khó tinh thần phải được một tình trạng cụ thể bên ngoài tương ứng? Matthêu minh định rằng sự khó nghèo nội tâm làm nên cái cốt yếu; ông không mấy để ý tới nỗi túng thiếu bên ngoài, vì nó chỉ có ý nghĩa trong tương quan với sự nghèo khó bên trong. Nhưng theo vặn mạch chung của các Tin Mừng, phải nhận trong khó quan niệm được một kẻ giàu có biết siêu thoát tài sản của mình.

Lối giải thích thứ hai coi người nghèo là những tâm hồn không chỉ dứt bỏ của cải, song còn biết từ khước chính mình và phó thác cho Thiên Chúa. Sự nghèo khó này chẳng những liên hệ đến tài sản vật chất, mà còn lan rộng tới các loại của cải khác như -tiếng tăm, khả năng, công nghiệp thiêng liêng tinh thần nghèo khó bấy giờ tương đương với khiêm hạ. “Nghèo khó trong tinh thần là những kẻ có ý thức đầy đủ và đau đớn về sự nghèo nàn thiêng liêng của mình, về tính cách bất toàn của tâm hồn mình, về sự thiện ít ỏi mình đang mang, về sự bần cùng luân lý mà phần lớn nhân loại sa phải. Chỉ có những kẻ nghèo biết mình nghèo mới đau khổ về sự túng cực của mình cùng cố gắng thoát ra khỏi đó. Và họ khác xa biết bao với các người giàu giả tạo, những kẻ tưởng mình kiện toàn, không thể cải thiện hơn, đúng phép với hết thảy, đẹp lòng Thiên Chúa và đẹp lòng mọi người; những kẻ này thiếu niềm ao ước và lòng hăng say leo lên tới một chóp đỉnh mà họ tưởng đã đạt, và họ sẽ chẳng bao giờ giàu sang, vì không biết được nỗi khốn khổ khôn dò của mình” (Papini).

Khó mà dứt khoát chọn lấy một trong hai cách giải thích trên. Lối giải thích sau có cái lợi là phù hợp với văn mạch Cựu Ước: sau lưu đày, các kẻ nghèo quả là những người có thân phận khiêm tốn, nhưng người ta vẫn nhấn mạnh hơn tới lòng trung thành với đạo và sự phó thác tin tưởng vào Thiên Chúa của họ. Khi xác định “trong tinh thần”, Matthêu có lẽ muốn đặt nặng khía cạnh tôn giáo của sự khó nghèo, cùng liên kết kẻ nghèo của mối phúc thứ nhất với các “khách hàng của Giavê” mà Cựu Ước đã nói tới, Ngược lại, lối giải thích thứ nhất rõ ràng muốn lưu ý nhiều đến tình trạng xã hội, là khởi điểm của ý niệm nghèo khó thiêng liêng. Tuy nhiên, theo cả hai, rõ ràng Matthêu từ chối gán giá trị nguyên cho sự nghèo túng vật chất. Điều đáng kể đối với ông chính là thái độ tinh thần, cái duy nhất mang giá trị luân lý và đáng ân thưởng.

B- Chân phúc th hai: nhng người hin lành (5, 4).

  1. Xut x ca chân phúc này: Có hai lập trường đối nghịch: một: cho rằng chân phúc nằm trong tài liệu nguyên thủy, hai: lại bảo nó đã được một sao lục viên về sau thêm vào nguyên bản Matthêu. Lập trường đầu không mấy chắc chắn. Lập trường sau, trái lại, dựa trên nhiều bằng chứng đáng tin cậy như các thủ sao do dự về vị trí của mối chân phúc, có khi đặt nó nằm hàng nhì (trước mối phúc các kẻ ưu phiền); lúc lại hàng thứ ba; nếu coi nó như là một sự thoán nhập, thì các chân phúc lui lại còn 7, một con số Matthêu ưa thích; rồi việc đăng chèn nó có thể cắt nghĩa như một lời giải thích mượn từ Tv 37,11; sau cùng chân phúc này sẽ không khác chân phúc đầu tiên, nếu ta nại vào tiếng hy bá là tiếng hầu như đồng hóa chữ “hiền lành” với chữ “khó nghèo”. Dầu sao mấy lập luận trên chẳng có tính cách quyết định. Nên phần lớn các tác giả vẫn duy trì xác thực tính của mối phúc này. Mọi thủ sao thảy đều ghị lại nó, dầu một vài bản đặt vào hàng thứ ba.
  2. Điu ha: Trong Tv 37,11 là Thánh vịnh gợi hứng cho mối chân phúc, có bân đến “Hứa địa”, đất Canaan. Chủ đề này bất nguồn từ lời Thiên Chúa hứa cho Abraham (St 15,7; 28,4), rồi được khai triển rộng rãi trong Đệ nhị luật (1, 8.39; 4,1.5.14) và mặc một sắc thái cánh chung trong Isaia đệ nhị (57,13; 60,21; 65,9). Nơi Matthêu, lời hứa chỉ muốn nhắm tới việc vui hưởng Nước Trời, như trong các mối chân phúc khác. “Đất” là gia sản được lời hứa thần linh bảo đảm (1Pr 1, 4-5). Chủ đề gia sản này thường gặp luôn trong Tân ước, nhưng thay vì thành ngữ “thừa hưởng đất”, người ta thích thành ngữ “thừa hưởng Nước Thiên Chúa” (Mt 25,34; 1Cr 6, 9-10…), “thừa ‘hường sự sống vĩnh cửu” hơn (Mt 19,29; Mc 10,27; Lc 10,25…). Vì gia sản thuộc về con cái là điều hợp lý, nên thừa hưởng gia sản, nói cách cụ thể, là nhận được tước hiệu con cái Thiên Chúa, như lời hứa nơi chân phúc thứ bảy, mối chân phúc của các kẻ xây dựng hòa bình (c.9), x.Kh 21, 6-7.
  3. Nhng người hin lành: Vì chân phúc này phát xuất do tay một soạn giả Hy lạp (hoặc có thể là một sao lục viên nào đó) nên ông ta chắc đã muốn nói lên một cái gì khác hơn là nội dung chữ “khó nghèo” theo Cựu Ước, nếu không thì mối phúc thứ hai này trùng với mối phúc đầu tiên. Ta có thể xác định ý niệm “hiền lành” bằng cách đối chiếu mối phúc với Mt 21,5 và 11, 28-30. Trong đoạn nhất, Chúa Giêsu, quy việc vào thành Giêrusalem, tỏ ra khác biệt hoàn toàn với các vua chúa lương dân là những kẻ thống trị bằng bạo lực. Trong đoạn 2 (xin lưu ý: thành ngữ “hiền lành và khiêm nhượng trong lòng” chỉ một thái độ nội tâm), Chúa Giêsu chống lại sự nghiêm khắc khó tính của ông thầy như các Biệt phái. Theo văn mạch ấy được củng cố nhờ các thư Tân Ước (nhân đức hiền lành xuất hiện trong đó hơn 12 lần), “hiền lành” thiết yếu là nhân từ, có quan hệ một đàng với sự khiêm tốn, đàng khác với lòng thương xót tha nhân… Thế nên, các kẻ “hiền lành” gần với các kẻ “thương xót” vậy!
  4. Chân phúc th ba: các k ưu phin (5, 5).

Văn mạch chung của các chân phúc nơi như đã xác định trên kia, buộc ta phải coi nỗi ưu phiền này là một thái độ của tâm hồn. Có thể xác định đối tượng của nó không? Khó mà trả lời dứt khoát được. Động từ Hy lạp pentlleô nói lên sự đau đớn biểu lộ ra bên ngoài qua những tiếng rên rỉ kêu la. Như trong Tân ước, pentheô thường đi kèm theo các động từ “kêu la, than thở”. Ngoài Bát phúc, chỉ dùng động từ này một lần nữa thôi, khi nói các môn đồ sẽ than khóc như bị tang chế sau ngày chia lìa Tân lang (9,15).

Có thể giả thiết rằng mối chân phúc thứ ba đề cập đến nỗi ưu phiền tương tự nỗi ưu phiền tang chế, đề cập đến các Kitô hữu than khóc vì cảm thấy phải chia lìa Thiên Chúa do tội lỗi mình. Họ ý thức một cách đau đớn tội mình đã phạm và nỗi khổ tinh thần do chúng gây nên (so sánh với 1 Cr 5,2; 2 Cr 12, 21; Gc 4, 9).

Niềm “an ủi” hứa ban cho họ bấy giờ hệ tại chỗ thứ tha tội lỗi. Do văn mạch cánh chung của những lời hứa khác, trước tiên phải đặt việc tha thứ này vào lúc phán xét sau cùng.

D- Chân phúc th tư: nhng k đói khát công chính (5, 6).

  1. Ý nim “công chính” trong Thánh Kinh: Trong Thánh Kinh, ý niệm “công chính” cổ truyền ám chỉ điều gì phù hợp với ý muốn Thiên Chúa và luôn luôn hiểu như là một đời sống cụ thể của con người trong lịch sử được Thiên Chúa, là vua và quan án nhân loại, chấp nhận chuẩn y. Trong Matthêu, ý niệm “công chính” được dùng lại theo nghĩa cổ truyền, hợp với Thánh Kinh. Nó chỉ cách ăn nết ở của Kitô hữu, rập khuôn theo thánh ý Thiên Chúa mà Chúa Kitô đã công bố. Cho nên sự “công chính” cần thiết để tham dự vào nước Trời này chẳng phải là một lý tưởng luân lý trừu tượng nhưng chính là thánh ý Thiên Chúa được biểu lộ ra bên ngoài qua các việc thiện Kitô hữu làm.
  2. S công chính người ta đói khát (Mt 5, 6): Trước hết phải loại trừ hai lời giải thích không phù hợp với văn mạch thần học của Matthêu: Tách biệt ra, chân phúc thứ tư có thể nói đến sự công bình đối lập với bất công xã hội dưới mọi hình thức. Nhưng lối cắt nghĩa này thích hợp với văn mạch lạc chứ không với Matthêu. Nơi Matthêu, chữ “công chính” có một nghĩa rộng hơn và sâu hơn là chữ công bình xã hội: sự công chính diễn tả toàn thể thái độ Kitô hữu được Thiên Chúa chuẩn y.

Ta cũng có thể nghĩ đến sự công chính siêu việt của Thiên Chúa, sự công chính sẽ tỏ hiện ra vào ngày chung thẩm để trừng phạt quân vô đạo và ban thưởng Nước Trời cho người công chính. “Đói khát công chính” bấy giờ có nghĩa là “nao nức mong chờ sự can thiệp dứt khoát của Thiên Chúa vào lúc cứu rỗi cánh chung”. Tuy nhiên văn mạch Matthêu không quy hướng chúng ta về sự công chính mà Thiên Chúa sẽ thực thi, nhưng về sự công chính mà con người phải nỗ lực đạt cho được trước mặt Thiên Chúa, bằng cách thi hành thánh ý Ngài.

Vậy thì đâu là văn mạch của Matthêu cho phép xác định chân phúc thứ tư này? Nơi 21,32 chữ “công chính” (“Gioan đã đến với các ông theo đàng công chính”) chỉ sự khắc khổ của Gioan Tẩy giả. Nơi 3,15 và 5,17, Matthêu lại viết Chúa Giêsu đến hoàn thành Lề luật và các Ngôn sứ: như thế nghĩa là sự “công chính” của Chúa Giêsu, hoàn hảo hơn sự công chính của Lề luật nằm trong đường hướng sự công chính phải được thực thi. Việc thêm chữ “và sự công chính của nó” trong 6,33 (“Trước tiên hãy tìm ‘Nước’ và sự công chính của nó”) hình như nhằm nhấn mạnh rằng người ta không chỉ nên cầu mong cho Nước Thiên Chúa đến để hưởng được mọi của cải của thế giới bên kia, nhưng phải cố công đạt cho được sự hoàn thiện Kitô giáo bằng cách làm việc lành: Luca nhấn mạnh tới ý hướng, còn Matthêu minh định ý hướng phải diễn ra hành động. Sự “công chính” của các môn đồ Chúa Giêsu phải vượt quá sự công chính của Ký lục và Biệt phái (Mt 5,20): vượt quá, nhưng vẫn cùng một loại. Sự “công chính” này sẽ đáp lại những đòi hỏi sâu xa hơn các đòi hỏi của Lề luật và lời giải thích chính thức về Lề luật, nhưng đó vẫn là sự công chính người ta thực thi bằng cách ăn ở phù hợp với Luật ấy. Phải giữ mình đừng thực thi nó một cách phô trương (Mt 6,1): các đòi hỏi của sự “công chính mới” chẳng những liên hệ tới các hành vi bên ngoài, mà còn lan rộng đến các ý hướng. Ở đây vẫn vậy, cũng chỉ là sự nối dài đường hướng xưa nay.

Thành ra kẻ đói khát sự công chính là các Kitô hữu nhiệt thành ao ước sống theo ý Thiên Chúa mà Chúa Giêsu đã truyền dạy. “Sự công chính” họ mong muốn là một sự công chính luân lý, do toàn thể những công việc có tính chất Kitô giáo xây nên. Sự công chính luận lý này là lý tưởng của sự hoàn thiện Kitô hữu, lý tưởng được quan niệm như một sự vượt quá hay đào sâu lý tưởng luân lý mà Lề luật đã đề ra cho người Do thái. Hạnh phúc của Nước Trời dành cho những ai hết sức ao ước thực thi sự hoàn thiện đó trong cuộc đời họ.

E- Chân phúc th năm: nhng k biết thương xót (5, 7).

  1. Điu ha: lòng thương xót của Thiên Chúa: Văn mạch các chân phúc của Matthêu cho thấy lời hứa này trước tiên nói đến lòng thương xót của Thiên Chúa, lòng thương xót sẽ biểu lộ vào ngày cánh chung, lúc phán xét, khi Chúa Kitô đem các kẻ “biết xót thương” vào Nước Người so sánh với Gd 21; 2 Tm 1,18).
  2. Điu kin: bổn phận xót thương: ý niệm sau đây rất quen thuộc với Do thái giáo và Kitô giáo: để chắc chắn được Thiên Chúa thương xót ngày chung thẩm, phải biết tỏ lòng nhân ái với tha nhân. Có nhiều bản văn nói về hậu quả này trong ngụy thư Do thái và sách giáo sĩ, chẳng hạn câu: “Ai biết thương người, sẽ được thương xót trên trời; ai không thương người, trên trời sẽ chẳng xót thương họ”. Cũng vậy trong Tân Ước (Gc 2, 13: “án xử sẽ tàn nhẫn cho người bất nhân”) và nơi các Tông phụ (1 Clêm. 13, 2; Polycarpô 2, 3).

Matthêu nhấn mạnh bổn phận nhân ái này. Chỉ mình ông trích lại, và trích đến hai lần, bản văn Hs 6,6: “Ta muốn lòng nhân chứ không muốn hy lễ” (9,13; 12,7). Trong cả hai trường hợp, đó là một bài học cho Biệt phái, những kẻ đòi phải tuân giữ lề luật phụng tự mà bỏ quên lòng nhân ái (so sánh với Mt 23, 23). Nơi lời cầu xin thứ 5 của kinh Lạy Cha, chỉ mình Matthêu chú giải thế này: “Vì nếu các ngươi tha thứ cho người ta những điều họ xúc phạm, thì Cha các ngươi trên trời cũng sẽ tha cho các người…” (6,14-15). Sau cùng dụ ngôn người tôi tớ bất nhân (Mt 18, 23-35) soi sáng một cách cụ thể cái bổn phận xót thương bằng cách tha thứ cho anh em mình.

  1. Chân phúc th sáu: nhng k tinh sch trong lòng
  2. Đim tương t vi chân phúc đầu tiên: Như chân phúc các kẻ nghèo, chân phúc của những người trong sạch chuyển một tính cách thể lý sang bình diện tinh thần. Đầu tiên, sự “tinh sạch” gợi lên sự sạch sẽ của thân xác. Tiếp đó nó mặc một ý nghĩa tế tự, chỉ định tính cách của kẻ phải có đầy đủ các điều kiện cần thiết để trình diện trước bàn thờ Thiên Chúa. Sau cùng, hạn định từ “trong lòng”, tương đương với “trong tinh thần” của chân phúc thứ nhất, đặt tính cách này vào nội tâm.
  3. Mch văn Kinh Thánh: Chân phúc thứ 6 là âm vang của Thánh vịnh 24, 3-6 (so sánh với Tv 15, 1-3). St 20,5 đặt đối lập sự trong sạch ý hướng với sự nhơ bẩn chiếu theo lề luật (Abimélek đã vô tình lấy vợ của Abraham). “Tinh sạch trong lòng”; như các thành ngữ tương tự: “thẳng thắn trong lòng”, “đơn sơ trong lòng”, bao giờ cũng chỉ sự ngay thẳng của lương tâm. Thành ra nó “không có nghĩa tinh sạch như hiện thời” (I. Fransen), nhưng nói lên sự vắng bóng lòng tráo trở, dạ bất lương. Người tinh sạch trong lòng phục vụ Thiên Chúa và tha nhân “hết tâm hồn”, không tính toán tư lợi hay giả bộ đạo đức. Việc chuyển dịch từ bình diện nghi lễ sang bình điện luân lý cũng gặp lại trong Tân Ước. Nhưng khi được thiêng liêng hóa, ý niệm tinh sạch vẫn không mất đi âm hưởng phụng tự (ví dụ 2 Tm 1,3; 2,22; Gc 4,8).
  4. Quan đim luân lý ca Matthêu: Chữ “thấy Thiên Chúa” gợi lại bối cảnh phụng tự nguyên thủy của sự tinh sạch: trong Tv 24, 6 và 17, 15, “thấy Thiên Chúa “có nghĩa là “trình diện trước nhan Ngài”, tại Đền thờ Ngài ở Giêrusalem; trong Matthêu, thành ngữ chỉ hạnh phúc Nước Trời, được gợi lên dưới hình ảnh một sự tham dự vào phụng tự diễn ra trước mặt Thiên Chúa (Kh 22, 3-4; Dt 12,14).

Tóm lại, để được nhận vào trước nhan Thiên Chúa, cần phải tinh sạch. Sự tinh sạch này không chỉ có tính cách nghi lễ; nó còn nằm nơi sự hoàn toàn ngay thẳng bên trong. Đây không phải là những hành vi, song là một thái độ tâm hồn, thái độ làm căn nguyên cho mọi hành vi của ta và ban cho chúng ý nghĩa luân lý đích thực.

G- Chân phúc th by: nhng k tác to hòa bình (5, 9).

  1. Điu ha: “Họ sẽ được gọi” tương đương với “họ sẽ là” Thường thường, trong ngôn ngữ Kinh Thánh, người ta không nhấn mạnh đến sự kiện được nhận một tên cho bằng đến hiệu quả tương ứng với tên đó nơi người nhận. Do đấy thể thụ động “được gọi ” hầu như có nghĩa là “trở nên”.

Họ sẽ được gọi như thế do ai và khi nào? Nhiều tác giả, với nhiều cách giải thích khác nhau, cho rằng đó là lòng kính trọng mà người đời dành cho những kẻ xây dựng hòa bình. Nhưng động từ ở thể thụ động, như nơi các câu 4.6.7, diễn tả hành động của Thiên Chúa. Thể thụ động này được gọi là “thể thụ động thần linh” (passif divin), là một đặc ngữ sêmita dùng để gán một hành động cho Thiên Chúa mà khỏi phải nhắc tên Ngài. Hơn nữa, mọi lời hứa của các chân phúc trong Matthêu đều có tính cách cánh chung: hết thảy chúng liên hệ tới hạnh phúc Nước Trời. Các kiểu nói khác nhau chỉ có mục đích gợi lên những khía cạnh dị biệt của cùng một thực tại. Thành ra phải kết luận rằng chính Thiên Chúa, vào ngày sau hết, sẽ công bố các kẻ xây dựng bình an là con cái Ngài (x. Kh 21, 7) và thiết đặt họ trong vinh hạnh ấy.

  1. Các k tác to hòa bình: Nếu lấy văn mạch Tân Ước minh giải ý tưởng “kiến tạo hòa bình” của chân phúc thứ bảy (Cl 1, 20; Ep 2, 15-16; Gc 3, 14-18) ta sẽ phải kết luận rằng trên thực tế nó đồng hóa vơi ý tướng giải hòa. Vì hoà bình là cái nối tiếp tình trạng thù nghịch hay tranh chấp. Đó không trực tiếp là thứ bình an nội tâm hay tôn giáo mà mọi cá nhân thủ đắc được, song là những tương quan tốt đẹp giữa các cá nhân, hoặc giữa kẻ “hiếu hòa” và người lân cận (Mt 5, 23-24), hoặc giữa những kẻ mà người “hiếu hòa” giải hòa lại với nhau (Cv 7, 26). Thành ra trọng tâm nằm trên sự đoàn kết giữa con người, và điều đó mặc nhiên giả thiết một thái độ trước của tâm hồn. Trái ngược với các chân phúc khác, chân phúc này thoạt tiên không nhắm tới một thái độ nội tâm, song là một hành vi bên ngoài. Làm một con người hiền hòa, yêu mến bình an không đủ mà còn phải ra công xây đắp bình an bất cứ nơi nào có bất hòa ngự trị.

H- Chân phúc th tám: nhng k b bt b vì s công chính (5, 10).

Chân phúc sau cùng này nằm trong hai trào lưu tư tưởng: một gồm loạt bản văn đưa ra những lời quở trách đối với hạng người Do thái bách hại, hai gồm loạt bản văn song hành chứa đựng nhiều lời khuyên bảo các môn đồ phải cơn bắt bớ.

  1. Li chúc d k bách hi: Chủ đề này vẫn thường gặp trong Do thái giáo (1V 19, 10. 14; 2Sk 36, 15- 16; Nh 9,26). Trong Kitô giáo, nó được khai triển bắt đầu từ Tin Mừng (Mt 23, 29-36; Lc 11, 47-51) cũng đã được Stêphanô (Cv 7, 51-52) và Phaolô (1Tx 2, 15-16) nối tiếp âm vang. Justinô, khoảng năm 160, đã trùng hợp các yếu tố chính của chủ đề như sau: các ông đã giết Đấng Công chính, và trước đó đã giết các ngôn sứ của Người: bây giờ các ông lại khai trừ những kẻ hy vọng vào Người, cùng khai trừ Đấng đã sai người đến là Thiên Chúa toàn năng và tác giả vũ trụ. Vì Ngài ở trong các ông, nên khi chửi rủa họ trong hội đường, các ông làm nhục những kẻ tin vào Chúa Kitô ” (Dial, 16, 4).

Hành động của những người bắt bớ và hình khổ họ sẽ chịu đặc biệt có tính cách cánh chung. Họ “đổ đầy lường” của tổ tiên họ (Mt 23, 32); hành động của họ làm nên một sự kết liễu, hoàn thành; vì thế nó chuẩn bị cho họ một tai ương thảm khốc, tai ương này sẽ là hình phạt mọi tội mà tổ tiên họ đã phạm. “Cơn nghĩa nộ đã giáng xuống trên họ cho đến cùng” (1Tx 2, 16): lời phán quyết này, vào ngày chung thẩm, sẽ kết án họ phải chịu khổ hình hỏa ngục muôn đời.

Đặc điểm thiên sai -“vì cớ Con Người” (Lc 6, 22), “vì cớ Ta” (Mt 5,11)- liên kết với khía cạnh cánh chung. Tai họa của những kẻ bách hại không những xuất phát từ sự kiện họ đàn áp con người, nhưng trước hết từ sự kiện họ truy lùng những ai có liên hệ với Chúa Kitô. Xét cho cùng, họ bách hại chính “Con Người”, Đấng rồi đây sẽ xuất hiện trên mây trời để hoàn thành cuộc chung thẩm kẻ sống và kẻ chết.

  1. Li khuyên nh nhng người b bt b. Trong mọi bản văn sau đây, màu sắc thiên sai đều hiện lên rõ ràng đậm nét:

Trước hết là những lời Chúa Giêsu khuyên nhủ các môn-đệ về vấn đề bách hại. Các đoạn chính nằm trong “Khải huyền Nhất lãm” (Mc 13, 9-13; Mt 24, 9-14, 10, 17-21; Lc 21, 12-19). Đặc điểm Kitô luận, “vì cớ Ta”, “vì danh Ta” gặp thấy khắp đó đây. Hạnh phúc của kẻ bị bách hại xuất phát từ chỗ họ phải đau đớn vì đã nên một với Đấng Xét xử của mình. Thành ra chân phúc trước tiên xuất hiện như một lời khẳng định có tính cách thiên sai từ phía Chúa Giêsu.Và lời khẳng định này không tách rời với bối cảnh cánh chung.

Tiếp đến là các đoạn đặt nổi mối tương quan chặt chẽ giữa số phận đời đời của con người và thái độ họ đã chọn lựa trước Chúa Kitô.

– Những bản văn liên kết với viễn tượng cuộc bắt bớ: “Ai mất sự sống mình vì Ta thì sẽ gặp lại ” (Mt 10, 19; x. 16, 25; Mc 8, 35; Lc 9, 24) — Kẻ nào hổ thẹn chí Ta và các lời Ta trước mặt thế hệ ngoại tình và tội lỗi này, thì Con Người cũng sẽ hổ thẹn chối nó khi Người đến trong vinh quang Cha Người với các thiên thần” (Mc 8, 38; x. Lc 9, 26; Mt 10, 32- 33, Lc 12, 8-9).

– Những bản văn liên hệ tai các sự thiếu thốn tự do chấp nhận và các hành vi bác ái tự do thực thi vì Chúa Kitô: “Không ai bỏ nhà cửa hay anh chị em, hay cha mẹ, hay con cái, hay ruộng nương vì Ta và vì Tin Mừng…” (Mc 10, 29-30; x. Mt 19, 29-30). -“Kẻ nào tiếp đón một trẻ nhỏ thế này vì danh Ta, tức là tiếp đón Ta” (Mc 9,37; x. Mt 18,5; Lc 9,48; Mt 10,40; Lc 10,16). -Kẻ nào cho các ngươi uống một bát nước vì danh nghĩa là các ngươi thuộc về Chúa Kitô…” (Mc 9,41; x. Mt 10,42). So sánh với Mt 25, 31-46: cái định đoạt số phận đời đời của còn người, đó là cách thức họ đối xử với các kẻ nhỏ và người cùng khốn, vì có một sự liên đới nhiệm mầu nối kết những hạng này với Chúa Kitô.

  1. S công chính mà vì đó người ta cam chu bt b (Mt 5, 10). Thiết tưởng nên hiểu việc bắt bớ vì sự công chính này như một việc bắt bớ phải chịu cách bất công. Như thế ta mới đối chiếu được mối chân phúc với 1Pr 3,14: “Nếu anh em phải khổ vì sự công chính thì phúc cho anh em”. Bối cảnh của 1 Pr 3, 14 quá rõ ràng: đó là những đau khổ mà Kitô hữu phải cam chịu dầu chẳng đáng. Thế mà chân phúc thứ 9, vế nhì của chân phúc thứ 8, có bao hàm chi tiết “sỉ mạ”.

Tuy nhiên, khó mà nghĩ rằng tiếng “công chính” ở đây khác nghĩa với tiếng công chính của chân phúc thứ 4 và của nhiều đoạn Tin Mừng Matthêu khác. Vì vậy, đây là vấn đề những đau khổ các môn đồ Chúa Kitô phải chịu vì sống phù hợp với lý tưởng Kitô giáo của mình. Người ta không còn nhấn mạnh như trước đến sự thiếu lý do xác đáng để gây nên bắt bớ, nhưng tích cực hơn, đến sự kiện phải đau khổ vì là Kitô hữu, một Kitô hữu biết tỏ ra lý tưởng của mình qua thái độ sống. Do đó phải liên kết thành ngữ “vì sự công chính” (chân phúc thứ 8) với chi tiết “vì Ta” trong chân phúc tiếp theo: “sự công chính” vì vậy xuất hiện như dấu ấn của Chúa Kitô trên lý tưởng và thái độ của môn đồ người. Ta cũng có thể đối chiếu Mt 5,10 với Mt 13, 21, nơi nói rằng sự bách hại được chịu dựng: “vì Lời” nghĩa là vì lý tưởng được Tin Mừng đề ra. Lời giải thích này không xa lời giải thích trước: 1 Pr 4, 14-19 cổ võ các tín hữu hãy đau khổ chỉ vì là Kitô hữu, để người ta không thể tìm trong họ bất cứ hành vi sai trái nào biện minh cho việc bắt bớ.

I- Chân phúc th chín: nhng k b bách hi vì Chúa Kitô. (5, 11)

Chân phúc thứ 9 xem ra chỉ lặp lại chân phúc thứ 8, những nơi Mt nó đóng vai trò hiện tại hóa; thực vậy, nó nói lên việc chuyển từ lý thuyết được đề ra sang thực tại cụ thể được cảm nhận và sống đồng thời với việc hành văn gián tiếp chuyển qua hành văn trực tiếp, thành ngữ “vì sự công chính” của câu 10 trở thành “vì Ta”. Đối với ai đã khám phá ra tính cách thời sự của Chúa Kitô hiện diện trong đời mình, thì không còn nghi ngờ gì nữa; và vào thời Mt viết Tin mừng của ông, cộng đoàn Kitô hữu đă nắm được ý nghĩa của mối chân phúc giữa lòng cơn bắt bớ mà họ đang chịu từ phía người Do thái.

“Hãy vui sướng và hân hoan”: Hai động từ này, mà Mt chỉ dùng ở dây, thường được Cựu Ước sử dụng để suy tôn, ca mừng những hành vi cứu rỗi của Thiên Chúa (x. Hb 3, 18) với một âm điệu cánh chung; chúng trở lại trong thư lPr để diễn tả, như ở đây, niềm vui của các Kitô hữu bị bắt bớ ( 1Pr 1, 8; 4, 13-14). Lúc mà người môn đồ cảm thấy niềm vui được liên kết mật thiết với cuộc Tử nạn của Chúa Kitô, thì họ nhận ra rằng Nước Trời thực sự đã đến.

KT LUN

Matthêu đã trình bày các chân phúc trong một bài giáo lý Kitô giáo ngắn gọn, theo cách thức khắc vào tâm trí những nguyên tắc và việc thực thi lý tưởng sống riêng biệt của Kitô giáo. Ông dạy rằng Nước Trời là phần thưởng cho những ai biết làm cho mình trở nên xứng đáng với Nước ấy nhờ thái độ nội tâm và nhờ cách thức sống sứ điệp Tin Mừng. Như vậy; các mối phúc thật của Matthêu có một ý nghĩa khuyến thiện: chúng chẳng những công bố song còn kêu mời. Lối giải thích này của Matthêu liên kết chặt chẽ vào giáo huấn Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã rao giảng một nền luân lý bên ngoài của Biệt phái. Các mối phúc, như phần tiếp của diễn từ, đưa ra những điều kiện phải chu toàn để được thông phần vào sự sống, những điều kiện của một nền luân lý hoàn toàn nội tâm.

Ý HƯỚNG BÀI GING

  1. Mi người đều ao ước hnh phúc. Chúa Giêsu đã đến để thỏa mãn cái khát vọng hạnh phúc đang dày vò tâm hồn nhân loại ấy. Người đến bảo cho chúng ta biết ai là kẻ hạnh phúc đích thực trên trần gian. Đó không phải là những người giàu sang, nổi tiếng, những nhà đại chinh phục, đại thiên tài, song là các kẻ nghèo hèn, khiêm nhu, chính trực, nhân ái, xây dựng hòa bình và chịu bách hại vì đức tin… Tiêu chuẩn hạnh phúc của Chúa Giêsu quả khác xa với các tiêu chuẩn của người đời vậy.
  2. Các thánh, hng người đã sng Bát phúc, là nhng k hnh phúc đích thc ca thế gii này. Dù gặp đau khổ, họ vẫn có thể nói như thánh Phaolô: “Tôi tràn ngập hân hoan giữa những cơn bắt bớ”. Vì đối với Kitô hữu, nỗi đau khổ không xung khắc với niềm vui, vì nó được chịu “vì” Chúa Giêsu, vì nó trở nên cơ hội cho ta liên kết mật thiết hơn và giống hơn với Bạn Tình.
  3. Nói cho cùng, tám chân phúc đều quy v mt mi: Phúc cho ai giống Chúa Giêsu. Vì nếu Chúa Giêsu đã tuyên bố Bát phúc trong diễn từ trên núi thì trước tiên Người đã sống chúng trong cuộc đời Người: chẳng ai từ bỏ bản thân, hiểu rõ nỗi khốn cùng nhân thế, rộng lòng xót thương, ao ước thi hành thiên ý, thẳng thắn và đơn sơ, xây dựng hòa bình và cam chịu bắt bớ bằng Người. Và chính vì thế Người đã có thể nói vào lúc cuối đời: “Lạy Cha, chớ gì niềm vui của con được tràn đầy nơi chúng, để niềm vui chúng nên trọn vẹn” (Ga 17, 13).

 

42. Suy niệm của Lm. Đan Vinh

Sống siêu thoát khiêm nhượng trong tình thương – Điều kiện để được vào Nước Trời

  1. HỌC LỜI CHÚA

Ý CHÍNH: Tám mối phúc thật.

Mát-thêu đã tóm lược giáo lý của Đức Giêsu làm thành “Bài Giảng Trên Núi” hay cũng gọi là bản “Hiến Chương Nước Trời”. Đây là Tám Mối Phúc mà chính Đức Giêsu đã nêu gương và đòi hỏi các tin hữu phải thực hành trong cuộc sống, như tiêu chuẩn để được gia nhập vào Nước Trời do Người thiết lập. Chẳng hạn: Phải có tâm hồn nghèo khó nghĩa là sống siêu thoát đối với của cải vật chất, rồi phải ăn ở hiền hòa, có lòng sám hối, giữ đức công chính, có lòng thương xót, có tâm hồn trong sạch, ăn ở hòa thuận, sẵn sàng chịu bách hại vì đức Tin. Chỉ những ai sống theo các tiêu chuẩn nói trên mới đủ điều kiện để được hưởng hạnh phúc Nước Trời là thiên đàng đời sau.

CHÚ THÍCH:

C 1-3: + Đoàn lũ đông đảo: Gồm các Tông đồ, các môn đệ và dân chúng đến từ Ga-li-lê, miền Thập Tỉnh, miền Giu-đê và thủ đô Giê-ru-sa-lem. Lại có cả dân ngoại từ các thành Ty-rô và Si-đon (x. Lc 6,17; Mt 4,25). Như vậy đoàn lũ đông đảo nói lên tính phổ quát của sứ điệp Đức Giêsu. + Người đi lên núi: Núi ở đây thực ra chỉ là một quả đồi ở gần thành Ca-phác-na-um. Nhưng Tin Mừng Mát-thêu dùng tiếng “núi” để gợi lại việc Thiên Chúa ký kết Giao Ước và ban Lề Luật cho Ít-ra-en trên núi Si-nai. + Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần bên: Ngồi là tư thế của vị tôn sư khi giáo huấn môn đồ (x. Mt 13,1). + Phúc thay: Đây là kiểu nói thường được sử dụng trong Cựu Ước (x. Tv 1,1-2; Cn 3,3). Ở đây Đức Giêsu dùng lối nói này để khai mạc Nước Trời, trong đó những người nghèo đói, hèn mọn, sầu khổ… sẽ được hạnh phúc thật, miễn là họ tiếp nhận sứ điệp của Người. Mát-thêu dùng kiểu nói: Phúc thay ai…, đang khi Lu-ca thì viết: Phúc cho anh em… (6,20-26).+ Tinh thần nghèo khó, vì Nước trời là của họ: Nghèo khó là tinh thần khiêm tốn với lối sống đơn giản, không tham lam tiền bạc; giống như trẻ em không tranh giành địa vị quyền hành. Đây là điều kiện để được gia nhập vào Nước Trời (x. Mt 18,1-11). Nghèo khó cũng đồng nghĩa với sự siêu thoát, sẵn sàng chia sẻ của cải vật chất cho người nghèo như điều kiện để đi theo làm môn đệ Đức Giêsu và đáng được Nước Trời làm phần gia nghiệp (x. Mt 19,16-22).

+ So sánh sự khác nhau giữa hai câu: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5,3), và câu: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của anh em” (Lc 6,20) giống và khác nhau thế nào?

Hai câu trên trong Tin Mừng Mát-thêu và Lu-ca đều đề cập đến điều kiện phải có để được gia nhập vào Nước Trời hay Nước Thiên Chúa. Tuy nhiên Tin Mừng Lu-ca nhấn mạnh những người nghèo khó không cơm ăn áo mặc sẽ được Chúa bù đắp cho ưu tiên gia nhập Nước Thiên Chúa, khác với Tin Mừng Mát-thêu cho biết để được gia nhập vào Nước Trời đòi người ta phải có tâm hồn nghèo khó, nghĩa là phải hóa nên như trẻ thơ không ham mê địa vị quyền hành (x. Mt 19,13-14), sẵn sàng chấp nhận ngồi chỗ thấp trong bàn tiệc (x. Lc 14,10-11). Họ sẽ được Thiên Chúa nâng lên và cho ưu tiên hưởng hạnh phúc là ơn cứu độ muôn đời (x. Lc 1,53; 16,25).

C 4-5: + Hiền lành: Trong Kinh Thánh, sự hiền lành luôn đi đôi với nghèo khó, khiêm nhường, nhỏ bé, yếu đuối, bị oan ức và thiếu thốn. + Đất Hứa làm gia nghiệp: Đất Hứa là một kiểu nói ám chỉ Nước Trời (x. Tv 37,11). + sầu khổ: là than khóc, buồn sầu vì đã phạm tội mất lòng Chúa và phải xa lìa Thiên Chúa. Buồn sầu thường do tội lỗi gây ra (x. 1 Cr 5,2). Đây cũng là tâm tình của người đang mong chờ ơn cứu độ của dân Ít-ra-en như ông Si-mê-on đã ca tụng Thiên Chúa (x. Lc 2,25). + Được Thiên Chúa ủi an: Sự đau buồn này sẽ được Thiên Chúa bù đắp bằng niềm an ủi và còn được Chúa xét xử khoan dung trong ngày tận thế.

C 6-8: + Khát khao nên người công chính: Công chính là cách ăn ở hợp với thánh ý Thiên Chúa (x. Mt 3,15). Khát khao nên người công chính nghĩa là ước mong sống công bình ngay chính, tuân giữ Luật Chúa truyền dạy như ông Giu-se (x. Mt 1,19) và tránh thói giả hình của người pha-ri-sêu (x. Mt 5,20). + Nước Trời là của họ: Hạnh phúc Nước trời sẽ được dành để ban thưởng cho những ai muốn sống cuộc đời hoàn thiện. + Xót thương người: nghĩa là tỏ lòng nhân hậu đối với các tội nhân noi gương Thiên Chúa: “Ta muốn lòng nhân từ chứ đâu cần lễ tế” (Hs 6,6) và như người Sa-ma-ri-a nhân hậu đã sẵn lòng giúp đỡ người gặp nạn (x. Lc 10,33-37). + Sẽ được Thiên Chúa xót thương: Có lòng thương xót và biết tha thứ cho kẻ xúc phạm đến mình thì sẽ được Thiên Chúa xót thương và được tha tội nợ (x. Mt 6,14-15). Ông chủ trong dụ ngôn “hai con nợ” đã mắng kẻ không biết thương xót: “Ta đã tha hết số nợ ấy cho ngươi vì ngươi đã van xin Ta. Thì đến lượt ngươi, ngươi không phải thương xót đồng bạn, như chính Ta đã thương xót ngươi sao?” (Mt 18,32-33). + Lòng trong sạch: Trong sạch ở đây không những là đức khiết tịnh, mà còn ám chỉ một lương tâm ngay thẳng, hết lòng phụng sự Chúa và tha nhân, không màng danh lợi… + Được nhìn thấy Thiên Chúa: Là được tiếp xúc thân mật với Chúa như ông Mô-sê xưa đã được gặp gỡ đàm đạo với Đức Chúa “diện đối diện” (x. Xh 33,11).

C 9-10: + Phúc thay ai xây dựng hòa bình: Sứ mạng của các môn đệ là phải làm cho mọi dân nước trên thế giới trở thành đại gia đình có Thiên Chúa là Cha và mọi người là anh em của nhau. Người tín hữu cần sẵn sàng làm hòa với những ai đang bất bình với mình, để lễ dâng lên Chúa xứng đáng được chấp nhận (x. Mt 5,23-24). + Được gọi là con Thiên Chúa: Vì Thiên Chúa là Tình Yêu. Ai sống yêu thương thì mới ở trong Thiên Chúa và trở nên con cái Thiên Chúa. Họ sẽ được Chúa yêu thương và tâm hồn được bình an (x. 2 Cr 13,11). + Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính: Có phúc vì nên giống Đức Giêsu, Đấng đã bị các đầu mục Do thái hãm hại. Người đã phải trải qua cuộc khổ nạn như vậy rồi mới được vào trong vinh quang phục sinh. Đây là một sự điên rồ đối với người Do thái và là điều không dễ chấp nhận, ngay cả các môn đệ Đức Giêsu cũng vậy (x. Mt 16,22). Tuy vô tội, nhưng Đức Giêsu săn sàng bị người Do thái bắt bớ giết hại trên cây thập giá để đền tội thay cho nhân loại chúng ta (x. Mt 10,24-25). Thánh Phê-rô cũng nói thêm như sau: “Nếu anh em chịu khổ vì sống công chính, thì anh em thật có phúc !” (1 Pr 3,14).

C 11-12a: + Vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa: Lời Chúa giải thích mối phúc thứ tám để động viên các tín hữu thời Giáo Hội sơ khai đang bị bách hại. + Anh em hãy vui mừng hớn hở: Thánh Phê-rô cũng dạy: “Được chia sẻ những đau khổ của Đức Ki-tô bao nhiêu, anh em hãy vui mừng bấy nhiêu, để khi vinh quang Người tỏ hiện, anh em cùng được vui mừng hoan hỉ. Nếu bị xỉ nhục vì danh Đức Ki-tô, anh em thật có phúc, bởi lẽ Thần Khí vinh hiển và uy quyền, là Thần Khí của Thiên Chúa, ngự trên anh em” (1 Pr 4,13-14). + Vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao: Chính khi chịu đau khổ bách hại và liên kết với cuộc tử nạn của Chúa Giêsu, các tín hữu sẽ được nên giống Người và sau này còn được Người đón nhận vào Thiên Đàng hưởng hạnh phúc viên mãn với Người.

CÂU HỎI:

1) Tám Mối Phúc Thật là bản tóm lược những điều kiện phải có để được vào Nước Trời do Chúa Giêsu thiết lập. Trong Tám Mối Phúc này, mối phúc nào quan trọng nhất và là nền tảng của các mối phúc khác ? 2) So sánh ý nghĩa câu: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó” trong Tin Mừng Mát-thêu với câu “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó” trong Tin Mừng Lu-ca giống và khác nhau thế nào ? 3) Tại sao Chúa Giêsu lại chúc phúc và đề cao người nghèo, đang khi chỉ người giàu có mới có điều kiện giúp xóa đói giảm nghèo ? 4) Ý nghĩa của các mối phúc còn lại như thế nào: Phúc cho ai hiền lành, sầu khổ, khát khao nên người công chính, biết xót thương người, có tâm hồn trong sạch, xây dựng hòa bình, bị bách hại vì danh Chúa ?

  1. SỐNG LỜI CHÚA:
  2. LỜI CHÚA: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5,2).
  3. CÂU CHUYỆN:

1) Nghịch lý của Kitô giáo: Tonner, một nhân vật nổi tiếng hiện nay của Mỹ, là một tỉ phú giàu có, một trong các sáng lập viên của hệ thống truyền hình CNN. Gần đây trong một cuộc phỏng vấn của tạp chí The New York, Tonner cho biết không phải lúc nào cũng thành công. Ông đã từng bị thất bại và đi đến thất vọng đến nỗi đã nghĩ tới việc tự tử. Một người là một trong những nhân vật quyền thế nhất nước Mỹ, nhất là sau khi đã tặng hàng tỉ Mỹ kim cho Liên Hiệp Quốc, giờ đây phải thú nhận mình đang là nạn nhân của một cuộc chiến về mọi mặt, từ việc kinh doanh đến cuộc sống gia đình và ngay cả niềm tin tôn giáo. Thất bại trong đời sống hôn nhân là điều tệ hại nhất đối với Tonner. Ông và nữ tài tử Folda đã ly hôn sau tám năm chung sống. Lý do chính khiến cho hai người chia tay là vì Folda đã theo đạo để trở thành một tín hữu Ki-tô. Tonner tỏ ra không mấy thiện cảm với đức tin tôn giáo. Ông cho rằng Ki-tô giáo là một tôn giáo chỉ dành cho những kẻ thua cuộc thất bại. Ông đã gọi Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II là một tên ngu ngốc. Với tất cả những gì đang chiếm hữu, Tonner thật có lý khi coi các tín hữu Kitô là những kẻ thất bại nghèo đói. Nhưng điều nghịch lý nhất của Ki-tô giáo mà Tonner không sao hiểu được là người tín hữu Ki-tô chọn đi con đường: “thua để thắng”, “mất để được” như Đức Giêsu đã chọn và Tông đồ Si-mon Phê-rô đã phản kháng. Đó là con đuờng “Qua đau khổ của sự chết để vào trong vinh quang phục sinh” (x. Mt 16,21-23), Nghịch lý này về sau đã được thánh Phan-xi-cô Át-si diễn tả trong lời cầu của kinh Hòa Bình. (nguồn: radio veritas Asia).

2) Sống siêu thoát hiền hòa như Phanxicô Átsi

Phan-xi-cô thành Át-si (Phanxicô Assise) là con một nhà quý tộc giàu có danh giá ở thành Át-si. Một hôm đi nhà thờ dự lễ và tình cờ nghe một vị linh mục giảng về Tám mối Phúc Thật, Phan-xi-cô rất tâm đắc với câu nói của Chúa Giêsu: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5,2). Từ hôm ấy, anh luôn suy nghĩ xem mình phải sống thế nào để trở thành một người nghèo thực sự theo lời dạy của Chúa? Rồi một ngày nọ, anh đi đến quyết định sống cuộc đời siêu thoát, từ bỏ mọi sự để hoàn toàn phó thác cuộc đời cho Chúa quan phòng. Anh đã bán gia sản của cha mình và đem phân phát cho những người nghèo khổ bệnh tật. Hành động của Phan-xi-cô đã đến tai người cha khiến ông này nổi cơn thịnh nộ. Ông đã đến tịch thu tất cả những gì còn sót lại của Phan-xi-cô và tuyên bố từ không nhận Phan-xi-cô làm con nữa. Ngày hôm ấy Phan-xi-cô đã bỏ lại tất cả quần áo, giầy dép sang trọng đang mặc để ra kihỏi nhà với hai bàn tay trắng. Anh đã viết nhật ký như sau: “Bây giờ tuy không còn có cha ở trần gian, nhưng tôi vẫn luôn có Cha Trên Trời hằng thương yêu tôi”. Từ ngày đó anh được hoàn toàn tự do đi theo lý tưởng đã chọn lựa là “từ bỏ tất cả mọi sự, trở nên nghèo khó vì Nước Trời”. Ban ngày, trong bộ quần áo vải thô, chân không giày dép, Phan-xi-cô đã đi bộ ngang qua các đường phố làng mạc để khất thực. Tối đến, anh thức khuya đọc Thánh Kinh, cầu nguyện và dùng giây da để hành xác. Anh đã được Chúa in năm dấu thánh trên hai bàn tay, hai bàn chân và cạnh sườn để nên giống Chúa Giêsu bị đóng đinh chân tay và chịu lưỡi đòng đâm thâu trên cây thập giá. Anh đã thực hành đúng theo Lời Chúa dạy: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5,3). Lối tu luyện khổ hạnh của Phan-xi-cô đã được Hội Thánh đánh giá cao và dòng “Anh em hèn mọn” do Phan-xi-cô sáng lập đã trở thành một dòng tu lớn bậc nhất trong Hội Thánh. Sau khi qua đời, anh đã được Hội Thánh phong lên bậc hiển thánh là thánh Phan-xi-cô Át-si hay Phan-xi-cô Năm Dấu, kính nhớ vào ngày 04 tháng 10 hằng năm.

  1. SUY NIỆM:

1)Thế nào là hạnh phúc ? Làm sao để có hạnh phúc thực sự?

Hạnh phúc là một khát vọng tự nhiên của con người muốn được thỏa mãn các nhu cầu cả về thể xác cũng như tâm hồn, mà sau khi đã được thỏa mãn người ta sẽ cảm thấy vui vẻ sung sướng không còn bị khát khao nữa. Có hai thứ hạnh phúc: Một là hạnh phúc tự nhiên khả giác và hai là hạnh phúc siêu nhiên tinh thần như sau:

– Về hạnh phúc tự nhiên: Người ta sẽ cảm thấy hạnh phúc khi được thỏa mãn điều mình khát vọng như: Được có nhiều tiền của vật chất, được sống chung với người mình yêu, được khen ngợi thành tích đã đạt được, được thi đậu vào trường học hay được cấp visa nhập cảnh ra nước ngoài, được thăng quan tiến chức theo ý muốn… Tuy nhiên, thứ hạnh phúc này thường không bền lâu và nhiều khi hạnh phúc hôm nay lại trở thành nguyên nhân gây ra bất hạnh sau đó.

– Về hạnh phúc siêu nhiên: Tin Mừng hôm nay đề cầp đến thứ hạnh phúc tinh thần của các tín hữu Ki-tô là « Tám Mối Phúc ». Đây là bản Hiến Chương Nước Trời do Đức Giêsu- Mô-sê Mới của thời Tân Ước đã công bố cho dân Ít-ra-en Mới là Hội Thánh, để kiện toàn Thập Giới do Mô-sê của thời Cựu Ước đã công bố cho dân Ít-ra-en trên hai bia đá trong cuộc Xuất Hành.

2) Về tám mối phúc của Đức Giêsu:

Đây là những tiêu chuẩn mà những ai muốn được ơn cứu độ của Đức Giêsu phải thực hành trong cuộc sống như sau:

+ Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó: Người có tâm hồn nghèo khó là người không tham lam tiền của, không tranh giành địa vị chức quyền, nhưng luôn sống đơn giản siêu thoát và khiêm nhường phục vụ noi gương Đức Giêsu, nên họ sẽ được ban thưởng Nước Trời đời sau.

+ Phúc thay ai hiền lành: Người hiền lành là người có lòng từ bi nhân ái, không cố tình làm hại ai, nhưng luôn biết nhẫn nhịn chịu đựng những xúc phạm của tha nhân vì lòng mến Chúa, nên họ sẽ được Chúa bù đắp các thiệt thòi bằng hạnh phúc là đất hứa Thiên Đàng.

+ Phúc thay ai sầu khổ: Người sầu khổ là người ý thức giá trị thanh luyện của đau khổ nên sẵn sàng chịu đựng mọi gian khổ gặp phải trong cuộc sống hằng ngày, nên họ sẽ được Chúa đoái thương “lau khô giọt lệ” và được Người động viên an ủi bằng hạnh phúc Thiên Đàng sau này.

+ Phúc thay ai khao khát nên người công chính: Người công chính là người luôn hướng thượng, muốn nên hoàn thiện noi gương Chúa Cha trên Trời, nên họ sẽ được thỏa lòng mong ước nhờ tin vào Chúa Giêsu và ăn ở công minh chính trực giống như Người.

+ Phúc thay ai xót thương người: Người biết xót thương là người luôn cảm thông chia sẻ niềm vui nỗi buồn với tha nhân như thánh Phao-lô dạy: “Vui với người vui, khóc với người khóc” (Rm 12,15), nên họ sẽ được Chúa xót thương và ban ơn tha thứ trước tòa phán xét sau này.

+ Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch: Người có tâm hồn trong sạch là người có nếp sống lành thánh trong tư tưởng lời nói và hành động, nên cặp mắt tâm hồn của họ sẽ nên trong sáng để có thể nhìn thấy Chúa nơi đang hiện thân nơi những người đói khổ bất hạnh (x. Mt 25,40), và sau này họ còn được “mặt giáp mặt” Chúa trên nước thiên đàng (1 Cr 13,12).

+ Phúc thay ai xây dựng hòa bình: Người xây dựng hòa bình là người luôn nhẫn nhịn chịu đựng, biết ứng xử theo nguyên tắc “dĩ hòa vi quý” để sống hòa thuận với tha nhân, nên họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa (x. Mt 5,45) và trở nên môn đệ thực sự của Đức Giêsu (x. Ga 13,35).

+ Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính: Người bị bách hại vì sống công chính là người do tin theo Chúa Giêsu nên đã bị bọn người gian ác thù ghét bách hại, nên họ sẽ được hưởng ơn cứu độ là hạnh phúc nước thiên đàng đời đời do Thiên Chúa thưởng ban.

Đối với những người không có đức tin thì bản Hiến Chương Nước Trời của Đức Giêsu là những điều nghịch lý khó lòng chấp nhận. Vì làm sao một người có thể được hạnh phúc khi đang trong tình trạng đói nghèo, buồn sầu, bách hại…? Nhưng đối với các tín hữu thì những điều nghịch lý nói trên lại trở thành hữu lý nhờ tin vào Chúa Giêsu và đi theo con đường “Qua đau khổ vào vinh quang” như Người đã ba lần tiên báo với các môn đệ: “Con Người sắp bị nộp vào tay người đời. Họ sẽ giết chết Người, và ngày thứ ba người sẽ trỗi dậy” (Mt 16,21; 17,22-23; 20,17-19).

3) Mối phúc căn bản: Phúc cho ai có tâm hồn nghèo khó:

Người có tâm hồn nghèo khó được Chúa chúc phúc phải sống nghèo khó vì người khác và cho người khác. Nếu một người sống nghèo khó vì mình, hà tiện không dám tiêu xài để mình ngày càng giàu thêm thì đó là thói hư hà tiện chứ không phải nhân đức khó nghèo của Tin Mừng. Rất nhiều người đã tưởng lầm mình có đức khó nghèo khi họ hà tiện không dám ăn uống, may mặc, hay chữa bệnh… vì sợ bị tốn tiền. Số tiền dư ra thay vì để chia sẻ giúp đỡ cho người nghèo thì họ lại gửi vào nhà băng hay mua vàng cất giữ. Khó nghèo như thế không mang lại ích lợi cho tha nhân và cũng sẽ không được hưởng lời Chúa chúc phúc.

Tâm hồn nghèo khó không những là sự quảng đại chia sẻ cơm áo tiền bạc vật chất, mà còn gồm cả sự quảng đại chia sẻ cho tha nhân về tinh thần. Chẳng hạn: Dành thời gian nghỉ ngơi để dấn thân làm công tác xã hội như: giúp chống dột, vệ sinh khu vực nhà thờ hay khu phố nên sạch đẹp… Một người dù có nhiều tiền bạc và phương tiện sống vẫn có thể được Chúa chúc phúc nếu biết chia sẻ vật chất tinh thần cho tha nhân, đang khi những kẻ nghèo khó do lười biếng ỷ nại vào người khác giúp đỡ, hoặc tham lam tiền bạc của cải cách bất công… thì cũng không thực sự có đức khó nghèo đáng được Chúa chúc phúc.

4) Các mối phúc đều là kết quả của việc thực hành giới răn “Mến Chúa Yêu Người”:

Mối phúc căn bản của tám mối phúc nói trên chính là lòng vị tha bác ái. Chính tình mến Chúa yêu người sẽ trở thành động lực khiến các tín hữu chúng ta sẵn sàng chịu đựng các sự thiệt thòi và đau khổ do kẻ gian ác gây ra cho mình. Điều quan trọng là chúng ta cần quyết tâm thực hành giới răn mến Chúa yêu người. Nhờ lòng mến mà mọi việc chúng ta làm sẽ được Chúa chúc phúc.

Mỗi mối phúc đều có hai vế: từ nguyên nhân đến hậu quả, từ việc gieo hạt giống đến mùa lúa bội thu; Từ “mình vì mọi người” đến chỗ “mọi người vì mình”; Từ “đi gieo trong nước mắt” đến “sẽ gặt trong vui mừng”… Sự nghèo khó, hiền lành, sầu khổ sẽ trở nên nguồn hạnh phúc nếu chúng ta biết chịu đựng vì lòng mến Chúa yêu người. Nếu không có tình thương làm nền tảng thì các sự nghèo khó, hiền lành, sầu khổ nói trên sẽ là tai họa và hình phạt mà thôi.

  1. THẢO LUẬN:

1) Hiện nay điều gì đang làm bạn vui vẻ hạnh phúc hay bị đau khổ bất hạnh ? 2) Khi gặp một sự rủi ro trái ý, một thất bại ê chề, một điều không vui do người khác gây ra, bạn thường phản ứng thế nào ? 3) Để có được hạnh phúc thật của Chúa, bạn nên làm gì để biến sự rủi ro trở thành may lành, biến đau khổ thành niềm vui trong Chúa ?

  1. NGUYỆN CẦU:

– Lạy Chúa Giêsu. Trong tám mối phúc thật Chúa dạy hôm nay, con thấy mối phúc quan trọng nhất và bao gồm mọi mối phúc khác là “Phúc thay những ai có tâm hồn nghèo khó”. Người có tâm hồn nghèo khó là người luôn tin cậy phó thác cuộc đời cho Chúa, nên sẽ cầu nguyện không ngừng; Là người ý thức về sự bất lực của mình, nên không bao giờ khinh dể tha nhân nhưng luôn phó thác cậy trông vào tình thương quan phòng của Chúa; Là người luôn ăn ở hiền lành và khiêm nhường noi gương Chúa khi xưa.

– Lạy Chúa. Người Mã Lai đã có câu châm ngôn so sánh các bậc vĩ nhân với những kẻ tiểu nhân như sau: “Cây lúa nào càng nặng trĩu hạt thì càng rạp sâu xuống sát mặt đất. Ngược lại: cây lúa nào càng nghểnh đầu lên cao thì lại càng có ít hạt”. Xin Chúa giúp chúng con luôn sống khiêm hạ và nghèo khó. Cho chúng con biết “Nói ít làm nhiều”, luôn từ tốn, khiêm nhu và hòa nhã với mọi người. Nhờ đó, chúng con sẽ nên giống Chúa hơn, sẽ có Nước Trời làm phần gia nghiệp đời này và đời sau.

X) Hiệp cùng Mẹ- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.