WHĐ (21/12/2021) – Câu hỏi: Làm thế nào để người trẻ có thể hiểu biết và trưởng thành khi quyết định lập gia đình theo luật Công giáo?
Trả lời:
Từ xa xưa, trong truyền thống văn hóa Việt Nam, gia đình có một chỗ đứng vô cùng quan trọng trong việc xây dựng sự hưng thịnh của quốc gia “gia đình là tế bào của xã hội”. Và cũng nhờ gia đình, mỗi cá nhân có thể phát triển toàn diện (nhân – nghĩa – lễ – trí – tín). Vì vậy, khi một thành viên trong gia đình kết hôn thì đó là một việc hệ trọng của cả dòng họ.
Hôn nhân là việc linh thiêng; do đó trước khi về chung sống với nhau, cô dâu chú rể được gia tộc hai bên tổ chức nghi lễ một cách công khai và long trọng. Đôi tân hôn được trời đất, ông bà tổ tiên, gia đình quan khách… chứng dám và chúc phúc. Những lời cầu chúc “trăm năm hạnh phúc”, “sống hạnh phúc đến đầu bạc răng long, con đàn cháu đống”… được tặng riêng cho đôi uyên ương.
Với người Công giáo, Hôn nhân Công giáo mang những giá trị đặc biệt giúp người Kitô hữu xây dựng một gia đình viên mãn ngay tại trần gian. Trong giới hạn của bài viết, xin chia sẻ với các bạn những tóm lược chính yếu về ý nghĩa hôn nhân Công giáo.
Vậy hôn nhân là gì?
Hôn nhân hay còn gọi là hôn nhân tự nhiên là một giao ước ký kết giữa một người nam và một người nữ. Hôn nhân được ký kết tự nguyện, tự do và ý thức trách nhiệm dựa trên tình yêu của hai người. Họ trở thành một gia đình, cùng nhau xây dựng hạnh phúc, nâng đỡ nhau trong tình vợ chồng, sinh sản và giáo dục con cái trong trách nhiệm làm cha làm mẹ.
Còn với Giáo hội Công giáo, người nam người nữ kết hôn với nhau đều là người Kitô hữu (cả hai đã được rửa tội). Họ ưng thuận kết ước cùng nhau thành vợ chồng trước mặt Thiên Chúa và Hội Thánh. Khi đó, hôn nhân trở thành Bí tích. Thánh Gioan Kim Khẩu nói: “Hôn nhân là Bí tích tình yêu… Khi vợ chồng nên một trong hôn nhân, cả hai không còn là hình ảnh dưới trần nữa, mà là hình ảnh của Chúa trên trời.”
Vì sao hôn nhân Công giáo là một Bí tích?
Chúng ta đã biết Bí tích là dấu chỉ bên ngoài do Chúa Giêsu thiết lập và truyền lại cho Hội Thánh cử hành, để diễn tả và thông ban cho chúng ta ân sủng bên trong là sự sống thần linh. Với bí tích hôn nhân, dấu thánh bên ngoài là sự ưng thuận thành hôn giữa hai người và công khai việc ưng thuận trước vị đại diện Giáo Hội (Linh mục) và các người chứng. Còn ơn bên trong cho đôi hôn nhân bao gồm ơn tự nhiên và ơn siêu nhiên để họ chu toàn bổn phận làm vợ làm chồng, làm cha làm mẹ trong gia đình. Công đồng Vaticanô II nêu rõ:
“Vợ chồng Kitô hữu được củng cố và như được thánh hiến bằng một Bí tích để chu toàn xứng đáng các bổn phận trong bậc sống của họ. Nhờ sức mạnh của Bí tích này, họ được thấm nhuần Đức Tin, Đức Cậy, Đức Mến và ngày càng tiến gần hơn tới sự trọn lành riêng biệt của họ và Thánh hóa lẫn nhau; bởi đó, họ cùng nhau tôn vinh Chúa.” (MV.48b)
Đời sống hôn nhân giúp cả hai cùng nên Thánh trong tình nghĩa vợ chồng.
Vậy Chúa Giêsu lập Bí tích Hôn phối khi nào?
Trong Kinh Thánh, sách Sáng thế tường thuật về việc kết hiệp vợ chồng của con người:
“Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật. Thiên Chúa phán: “con người ở một mình không tốt, Ta sẽ làm cho nó một trợ tá tương xứng với nó… Thiên Chúa cho một giấc ngủ mê ập xuống trên con người, và con người thiếp đi. Rồi Chúa rút một cái xương sườn của con người ra và lắp thịt thế vào, làm thành một người đàn bà và dẫn đến con người. Con người nói: “đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi! Nàng sẽ được gọi là đàn bà, vì đã được rút từ đàn ông mà ra.” Bởi thế, người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt.” (St 2,18.21–24)
Qua trình thuật trên cho thấy hôn nhân đã xuất hiện ngay từ khởi đầu của công trình sáng tạo. Đời sống hôn nhân của loài người là ý định của Thiên Chúa. Ngài tạo dựng con người có nam, có nữ và đã tác hợp họ thành vợ chồng, họ trở nên “một xương một thịt” gắn kết trong tình nghĩa phu thê. Nguồn gốc của hôn nhân chính là Thiên Chúa, Ngài là Đấng tác tạo hôn nhân và đã khắc ghi ơn gọi hôn nhân vào trong bản tính của con người khi tạo dựng con người có nam có nữ.
Nhưng chính Chúa Giêsu đã nâng hôn nhân lên Bí tích. Giáo Hội hiểu sự hiện diện của Chúa Giêsu tại tiệc cưới Cana như một sự chúc phúc của Thiên Chúa cho đời sống hôn nhân (Ga 2,1–11). Đồng thời, việc Ngài làm phép lạ hóa nước lã thành rượu ngon giúp đôi tân hôn và mọi người dự tiệc cưới có niềm vui trọn vẹn là một chứng thực của Ngài đối với giá trị hôn nhân. Mặt khác, nhìn nhận sự hiện diện thường xuyên của Ngài trong đời sống gia đình.
“Hội Thánh coi việc hiện diện của Đức Kitô trong tiệc cưới Cana có một tầm quan trọng đặc biệt. Hội Thánh nhìn sự kiện này như Lời Chúa xác nhận hôn nhân là việc tốt và công bố hôn nhân từ đây là dấu chỉ hữu hiệu về sự hiện diện của Đức Kitô.” (Sách GLHTCG, số 1613).
Đặc tính của Hôn nhân Công giáo là gì?
Khi đôi bạn trở nên vợ chồng, đời sống gia đình liên kết họ trong cả con người và hành động mỗi ngày một sâu sắc trong “tình nghĩa vợ chồng”. Sự liên kết mật thiết này là một sự tự hiến của cả hai người cho nhau. Vì lợi ích của gia đình và con cái nên “buộc hai vợ chồng phải hoàn toàn trung tín và đòi hỏi kết hợp với nhau bất khả phân ly”, nên đặc tính của hôn nhân công giáo là:
– Đặc tính đơn hôn: Đơn hôn là hôn nhân giữa một người nam và một người nữ. Hôn nhân Công giáo là duy nhất, trung tín, không chia sẻ, cả hai chỉ thuộc về nhau cả tâm hồn lẫn thể xác “nhất phu nhất phụ”. Đặc tính đơn hôn loại trừ hình thức đa thê.
– Đặc tính bất khả phân ly: Bất khả phân ly là hôn nhân ràng buộc hai người cho đến chết. Khi người nam, người nữ đã kết hôn thành sự và hợp pháp, họ phải chung thủy với nhau trọn đời. Không ai có thể tháo cởi dây hôn nhân đó cho dù vợ chồng họ đồng tình, dù quyền lực tôn giáo hay dân sự tán thành. Đặc tính vĩnh viễn này loại trừ sự ly dị, “Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly.” (Mt 19,6b)
Hai đặc tính đơn hôn, bất phân ly trong hôn nhân xuất phát từ ý định của Thiên Chúa “…Bởi thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt” (St 2,24). Trong Tin Mừng Matthêu khi trả lời với các nhà Biệt phái về việc ly dị, Đức Giêsu quả quyết: “Tại các ông chai đá cứng lòng, nên ông Môsê cho phép rẫy vợ, chứ thuở ban đầu không có thế đâu.” (Mt 19, 9).
Về mặt xã hội chúng ta có thể nhận định rằng, hôn nhân tự nhiên đòi buộc phải đơn hôn và vĩnh viễn, để mục đích của đôi bạn trong đời sống gia đình là trọn đời yêu thương nhau, sinh sản và giáo dục con cái mới thành viên mãn. Đôi bạn chung sống cùng nâng đỡ nhau, sự chung thủy sẽ làm gia đình thêm gắn bó yêu thương. Nếu một trong hai người chia sẻ tình cảm với một người thứ ba, thì gia đình này sẽ phát sinh những trục trặc khó lường được hậu quả. Mặt khác, những đứa con được sinh ra là do sự kết hợp thân mật vợ chồng. Nếu vợ chồng bất tín, thì nguồn gốc những đứa con sẽ bị nghi ngờ. Lúc đó, vợ chồng có thể an tâm nuôi dưỡng, chăm sóc, dạy dỗ những đứa con sinh ra trong bất tín chăng?
Đặc biệt hôn nhân Công giáo được chính Thiên Chúa thổi vào đó một phẩm giá cao quý, trong thư Êphêxô Thánh Phaolô viết: “Người làm chồng hãy yêu thương vợ mình, như chính Đức Kitô yêu thương Hội Thánh và hiến mình vì Hội Thánh.” (Ep 5,25) Chính sự mô phỏng này ban cho hôn nhân Công giáo phẩm giá cao quý nhất: tình yêu vợ chồng sánh ví như tình yêu giữa Chúa Kitô và Hội Thánh, vì người kia mà có thể hiến mạng sống mình. Một tình yêu không chia sẻ và trọn đời bền vững. Vì vậy, Hôn nhân Công giáo phải đơn hôn và bất khả phân ly do phẩm giá cao quý của Bí tích Hôn phối mang lại.
Mục đích của hôn nhân Công giáo là gì?
Ngay từ buổi ban đầu tạo dựng con người, Thiên Chúa đã muốn con người cộng tác vào công trình sáng tạo của Ngài. Ngài cho con người làm chủ muôn loài muôn vật và mời gọi con người: “Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều cho đầy mặt đất và thống trị mặt đất…” (St 2,28a). Ý định của Thiên Chúa là vợ chồng trọn đời yêu thương nhau và sinh sản đầy mặt đất. Và đó cũng là mục đích của hôn nhân Công giáo.
Trọn đời yêu thương nhau:
Đôi bạn đến với nhau do tình yêu thức đẩy, họ muốn nên một với nhau để tình yêu đó ngày càng triển nở và thăng hoa. Kinh Thánh diễn tả khi Ađam trong vườn địa đàng. Ông có tất cả vạn vật chung quanh nhưng ông vẫn thấy thiếu, thấy trống vắng: “Ông không tìm được trợ tá thích hợp” và Chính Thiên Chúa đã cho Ađam một trợ tá là bà Evà để lấp đầy sự thiếu thốn của ông. Ông sung sướng thốt lên: “Đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi! Nàng sẽ được gọi là đàn bà, vì đã được rút ra từ đàn ông” (St 2,23). Ađam cảm thấy hài lòng về nàng vì ông đã tìm được người tương trợ cho mình.
Trong hôn nhân, người nam, người nữ đến với nhau để bù đắp cái thiếu của nhau và tương trợ nhau trong đời sống gia đình và cuộc sống (xét cả về tâm sinh lý, xã hội, năng lực…). Khi kết ước nên một, đôi bạn phải nhìn nhận rằng, người chồng, người vợ của mình có những sở trường riêng, nhưng trong thân phận con người ai cũng có những sở đoản, giới hạn… Mỗi người cần phải biết giới hạn của mình và của người kia. Cuộc sống gia đình là một sự bổ túc qua lại, cùng nhau xây dựng, nâng đỡ, sẻ chia và cảm thông cho nhau…Trong hôn nhân, đôi bạn cần phải nhìn nhận giá trị của nhau như vậy cả hai mới quý trọng nhau, yêu thương nhau và để cuộc sống vợ chồng trở nên “mình với ta tuy hai là một”.
Những đứa con – hoa trái của tình yêu.
Công đồng Vatican II nhấn mạnh: “Con cái là ân huệ cao quý của hôn nhân, và là sự đóng góp lớn lao kiến tạo hạnh phúc cho cha mẹ.” (MV. 50). Đôi bạn trong hôn nhân nên một với nhau cả tâm hồn và thân xác. Tình yêu trao hiến của họ được truyền sinh và có được hoa quả tốt đẹp là những đứa con. Chính Thiên Chúa đã chúc phúc và ra lệnh: “Hãy sinh sản đầy mặt đất”. Thiên Chúa trao cho vợ chồng vinh dự được cộng tác vào công trình tạo dựng của Ngài, sinh sôi nảy nở và giáo dục chúng theo luật Thiên Chúa. Tình yêu của đôi bạn làm nảy sinh sự sống và làm cho công cuộc tạo dựng của Thiên Chúa tiếp tục được tồn tại.
Trong cuộc sống gia đình, cha mẹ trở thành những người đại diện của Thiên Chúa nuôi dạy và chăm sóc sự sống của Thiên Chúa là những đứa con. Cha mẹ giáo dục con cái giúp chúng phát triển toàn diện con người. Đây cũng là quyền lợi và bổn phận của cha mẹ mà không ai có thể thay thế được. Là người Công giáo, khi thi hành việc giáo dục nuôi dạy con cái theo luật Chúa, cha mẹ đang cộng tác với tình yêu của Thiên Chúa và họ trở thành người diễn đạt tình yêu của Người.
Bạn trẻ thân mến,
Trước khi kết hôn nhân, chúng ta thường có thời gian tìm hiểu nhau – điều này rất quan trọng vì “tôi sẽ sống với cô ta, anh ta cả cuộc đời mà!” Khi đã được gia đình hai bên hậu thuẫn, các bạn sẽ đi đến kết hôn. Với người Công giáo, các bạn sẽ trải qua một khóa học Giáo lý hôn nhân theo luật Công giáo. Trong khóa học này có rất nhiều bài học khác nhau như: tìm hiểu Hôn nhân Công giáo, đời sống gia đình, giáo dục con cái, tìm hiểu tâm lý vợ chồng, luân lý tính dục, lương tâm Công giáo và vấn đề điều hòa sinh sản, Giáo lý căn bản… Những hiểu biết về những vấn đề này rất quan trọng để xây dựng một gia đình hạnh phúc. Nhưng trên thực tế thăm dò, một bộ phận người trẻ coi việc học Giáo lý hôn nhân như là một “thủ tục hành chính”, hay một cái trạm kiểm duyệt để được kết hôn, có bằng Giáo lý hôn nhân là xong.
Chúng ta thử so sánh vui, để có một tấm bằng PTTH thường chúng ta trải qua 12 năm chăm chỉ đèn sách; để trở thành một bác sĩ có chuyên môn, một sinh viên y khoa trải qua ít nhất 7 năm học miệt mài nghiên cứu và thực tập khắp các bệnh viện. Thế nhưng để trở thành một người vợ, một người chồng, để làm cha làm mẹ trong suốt cuộc đời mình, chúng ta lại trải qua rất ít thời gian để tìm hiểu và học hỏi.
Phải chăng đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến cuộc sống hôn nhân ngày hôm nay thiếu lửa, thiếu sự chung thủy… và rơi vào bế tắc. Vợ chồng rất dễ đưa nhau ra tòa chấm dứt hôn nhân chỉ vì những lý do cỏn con. Hơn nữa, hoa quả của tình yêu là con cái, là tặng phẩm của Thiên Chúa giành cho vợ chồng, thì lại có những người đành tâm giết bỏ con mình từ trong trứng nước… Hay đời sống tính dục vợ chồng là một món quà đẹp của hôn nhân thì được người trẻ “làm phép thử” trước khi kết hôn và hậu quả là một sự khinh miệt giành cho nhau, rồi “đường ai nấy đi”…
Là một người trẻ Công giáo, các bạn đang là hiện tại và tương lai của Giáo hội. Thiên Chúa trao vào tay các bạn sự sống và sức sống của Thiên Chúa. Gia đình, con cái và tương quan vợ chồng của các bạn thế nào là phụ thuộc rất nhiều vào sự hiểu biết và trưởng thành của bạn trước khi kết hôn, và thực hành sống trong đời sống gia đình. Những kinh nghiệm của thế hệ đi trước (từ Gia đình, từ Giáo Hội và Xã hội) là rất cần thiết giúp chúng ta có một hành trang vững chắc xây dựng một gia đình hạnh phúc và tròn đầy.
Có thể nói, hôn nhân Công giáo là luật bảo vệ hạnh phúc gia đình của các bạn. Tôi hi vọng bạn đừng chần chừ với khóa học Giáo lý Hôn nhân và sẵn sàng lập gia đình theo luật Công giáo. Bởi sức sống của gia đình bạn của Giáo hội chúng ta và của xã hội này đang nằm trong tay các bạn.
Thân ái!
Thiên Di CND – CSA